Ai Có Thẩm Quyền Giải Thích Kho Tàng Đức Tin?

1. Toàn thể Hội Thánh
Kho tàng đức tin chứa đựng trong Kinh Thánh và Thánh Truyền được giao phó cho toàn thể Hội Thánh (xc. SGLHT, 84).
2. Huấn Quyền Hội Thánh
Nhiệm vụ giải nghĩa kho tàng mạc khải một cách chân chính được uỷ thác cho Huấn Quyền sống động của Hội Thánh. Hội Thánh thi hành quyền đó nhân danh Chúa Giêsu Kitô.
3. Huấn Quyền phục vụ Lời Chúa
Huấn Quyền của Hội Thánh không thể vượt lên trên Lời Chúa mà phải phục vụ Lời Chúa. Với sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, Hội Thánh lắng nghe cách thành tâm, trung thành gìn giữ và trình bày Lời Chúa.
(xc. SGLHT, 84-87).

Kinh Thánh Có Tương Quan Gì Với Thánh Truyền Không?

1. Tương quan mật thiết
Thánh Kinh và Thánh Truyền liên quan mật thiết với nhau, vì cùng:
1.1. Một nguồn mạch
Thánh Truyền và Thánh Kinh liên kết và giao lưu mật thiết với nhau, vì cả hai phát xuất từ một nguồn mạch duy nhất là Thiên Chúa, có thể nói là cả hai kết hợp nên một toàn bộ và hướng về cùng một mục đích" ( DV 9). Cả hai đều làm cho mầu nhiệm Ðức Ki-tô được hiện diện và sinh hoa trái trong Hội Thánh, chính Người đã hứa ở lại với môn đệ "mọi ngày cho đến tận thế " (Mt 28, 20) (SLGHT, 80); nhưng:
1.2. Hai cách lưu truyền
1.2.1. Thánh Kinh
"Thánh Kinh là Lời Thiên Chúa được ghi chép lại dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần" (SGLHT, 81).
1.2.2. Thánh Truyền
"Thánh Truyền chứa đựng Lời Thiên Chúa mà Chúa Ki-tô và Chúa Thánh Thần đã ủy thác cho các tông đồ, và lưu truyền toàn vẹn cho những người kế nhiệm các ngài, để nhờ Thánh Thần chân lý soi sáng, họ trung thành gìn giữ, trình bày và phổ biến qua lời rao giảng" (SGLHT, 81).
2. Đón nhận Thánh Kinh và Thánh Truyền như nhau
"Do đó, Hội Thánh, được ủy thác nhiệm vụ lưu truyền và giải thích Mặc Khải, "không chỉ nhờ Thánh Kinh mà biết cách xác thực tất cả những điều mặc khải, chính vì thế, cả Thánh Kinh lẫn Thánh Truyền đều phải được đón nhận và tôn kính bằng một tâm tình yêu mến và kính trọng như nhau"( DV 9)." (SGLHT, 82).

Kinh Thánh Được Lưu Truyền Như Thế Nào?

1. Lời rao giảng của các Tông Đồ
Lời Thiên Chúa được lưu truyền cho Giáo Hội theo mệnh lệnh của Chúa theo hai cách:
1.1. Truyền khẩu
Thời Giáo Hội sơ khai, những lời Chúa dạy và những việc Chúa làm được truyền miệng trong các cộng đoàn. "Bằng lời rao giảng, bằng gương mẫu và các định chế, các tông đồ truyền lại những điều đã học được từ chính miệng Ðức Ki-tô khi sống chung với Người và thấy Người xử sự hoặc những điều các ngài đã được Thánh Thần gợi hứng" (SGLHT, 76).
1.2. Chữ viết
Các Tông Đồ, thế hệ đầu tiên, cứ lần lượt ra đi. Một số người mới nghĩ ra cách nếu không ghi chép lại những lời và những việc Chúa đã nói và đã làm thì sẽ bị thất truyền, nên đã cất công sưu tầm, ghi chép lại thành những sách mà ta gọi là những sách thánh Tân Ước.
2. Mạc Khải được lưu truyền qua những người kế vị các Tông Đồ
Dưới sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần, Hội Thánh trung thành gìn giữ và lưu truyền nguyên vẹn kho tàng mạc khải cho hậu thế. "Ðể Tin Mừng luôn luôn được gìn giữ nguyên vẹn và sống động trong Hội Thánh, các tông đồ đã đặt các Giám Mục làm người kế nhiệm, và trao lại cho họ "trách nhiệm giáo huấn của các ngài" (DV 7). Vì vậy, "những lời giảng dạy của các tông đồ được đặc biệt ghi lại trong các sách linh hứng, phải được bảo tồn và liên tục lưu truyền cho đến tận thế " (DV 8) (SGLHT, 77).

Kinh Thánh Là Gì ?

1. Bộ sưu tập
Kinh Thánh là một bộ sưu tập gồm nhiều bản văn. Bộ sưu tập này được gọi là Sách Thánh. Sách Thánh gồm Cựu Ước và Tân Ước. Cựu Ước là di sản chung của Do Thái Giáo và Kitô Giáo trên khắp hoàn cầu. Còn Tân Ước cũng là Sách Thánh nhưng là di sản của các tín hữu Kitô (Công Giáo, Anh Giáo, Tin Lành và Chính Thông Giáo).
2. Cựu Ước
Cựu Ước gồm 46 cuốn sách: Cựu Ước : Sáng Thế, Xuất Hành, Lê Vi, Dân Số, Ðệ Nhị Luật, Giô-su-ê, Thủ Lãnh, Rút, 1và2 Sa-mu-en, 1và2 Các Vua, 1và 2 Sử Ký, Ê-dơ-ra và Nơ-khe-mi-a, Tô-bi-a, Giu-đi-tha, Ét-te, 1và2 Ma-ca-bê, Gióp, Thánh Vịnh, Châm Ngôn, Giảng Viên, Diễm Ca, Khôn Ngoan, Huấn Ca, I-sa-i-a, Giê-rê-mi-a, Ai-ca, Ba-rúc, Ê-dê-ki-en, Ða-ni-en, Hô-sê, Gio-en, A-mốt, Ô-va-đi-a, Giô-na, Mi-kha, Na-khum, Kha-ba-cúc, Xô-phô-ni-a, Khác-gai, Da-ca-ri-a, Ma-la-khi.
3. Tân Ước
Tân Ước gồm 27 cuốn: Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu, Thánh Mác-cô, Thánh Lu-ca, Thánh Gio-an, Công vụ Tông đồ, Thư Rô-ma, Thư 1 và 2 Cô-rin-tô, Thư Ga-lát, Thư Ê-phê-sô, Thư Phi-líp-phê, Thư Cô-lô-xê, Thư 1và2 Thê-xa-lô-ni-ca, Thư 1và 2 Ti-mô-thê, Thư gởi cho Ti-tô, Thư gởi Phi-lê-mon, Thư Do-thái, Thư Thánh Gia-cô-bê, Thư 1và2 Thánh Phê-rô, Thư 1, 2 và 3 Thánh Gio-an, Thư Thánh Giu-đa, Khải Huyền.

Kinh Thánh - Kho Tàng Tri Thức

1. Lịch sử niềm tin
Kinh Thánh ghi lại những kinh nghiệm sống đức tin của dân tộc được tuyển chọn vào Thiên Chúa duy nhất. Đức tin đó được thể nghiệm qua nhiều giai đoạn khác nhau: lúc thịnh lúc suy. Đức tin đó được thử thách qua dòng lịch sử của một dân tộc. Dân Israel đã sống kinh nghiệm đức tin với chiều dài bằng những cam go thử thách. Kinh Thánh chứa đựng một kho tàng kinh nghiệm sống của cả một dân tộc tin tưởng vào một Thiên Chúa luôn luôn trung tín và đầy lòng yêu thương.
2. Kho tàng tri thức nhân văn
Dân tộc Israel đã trải qua một lịch sử hình thành đầy biến động. Dân tộc thánh đã rút ra những bài học về cách sống với Thiên Chúa, với thiên nhiên, với lân bang và với chính mình. Từ thực tế cuộc sống, dân Israel đã đúc rút lại thành tục ngữ ca dao để dạy dỗ con cái biết sống hài hoà với các tương quan khác. Các sách giáo huấn như Thánh Vịnh, Châm Ngôn, Huấn Ca... chứa đựng tri thức nhân văn rất thâm thuý. Đó là những bài học dạy làm người, làm người quân tử: trên biết có Trời, dưới biết có người.
3. Tri thức mang ơn cứu độ
Trong Kinh Thánh có thể chứa đựng nhiều loại tri thức khác. Kinh Thánh thách thức nhân loại phải suy tư và truy tầm về nguồn cội của mình. Kinh Thánh cũng giúp con người khám phá ra các khoa học như khoa khảo cổ học...
Kinh Thánh không nhắm truyền đạt tri thức nhân loại, để nhờ đó, con người hiểu sâu biết rộng. Kinh Thánh dạy cho con người con đường về Nước Trời, hay nói cách khác Kinh Thánh dạy con người biết tìm ơn cứu độ cho chính mình: "Sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giêsu Kitô" (Ga 17,3).

Kiến Thức Kinh Thánh

Kinh Thánh - Thư Viện Sống
Kinh Thánh - Kho Tàng Tri Thức
Kinh Thánh Là Gì ?
Lưu Truyền Mạc Khải
Tương Quan Giữa Thánh Kinh Và Thánh Truyền
Giải Nghĩa Kho Tàng Đức Tin

Kinh Thánh - Thư Viện Sống

1. Lời Thiên Chúa
Kinh Thánh chứa đựng kho tàng mạc khải của Thiên Chúa. Kinh Thánh là Lời của Thiên Chúa. Lời đó bất di bất dịch.
2. Lời sáng tạo
Lời Thiên Chúa là Lời đầy quyền lực sáng tạo: "Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành,và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành" (Ga 1,3). Nhờ Lời đó, tất cả mọi sự trên trời dưới đất mới được tạo thành, và cũng nhờ Lời đó mà muôn vật được tồn tại.
3. Lời ban sự sống
Lời Thiên Chúa là lời ban sự sống. Ngay từ chương đầu sách Sáng Thế, chúng ta đã thấy là Thiên Chúa đã dùng Lời Ngài mà tác thành vạn vật. Thiên Chúa phán một lời, tức là lời đó thành hành động. Nhờ Lời đó sự sống xuất hiện. Lời Thiên Chúa là chính Thiên Chúa, mà ở nơi Thiên Chúa là sự sống, sự sống đó được thông ban cho con người nhờ Lời Thiên Chúa (xc. Ga 1,4).
4. Lời cứu độ
Lời Thiên Chúa có sức mạnh nơi chính Lời của mình. Tự Lời Thiên Chúa có sức mạnh cứu độ con người. Ai nghe Lời Thiên Chúa một cách say sưa và đem ra thực hành, thì Lời đó đảm bảo cho người ấy ơn cứu độ. Toàn bộ Kinh Thánh Tân Ước minh chứng cho chúng ta điều đó.
5. Lời để sống
Kinh Thánh không như một cuốn tiểu thuyết, chỉ cần đọc thoáng qua và chỉ cần đọc một lần là nắm được nội dung cốt truyện. Kinh Thánh là kinh nghiệm sống đức tin của một dân tộc, dân tộc được tuyển chọn; không chỉ có thế thôi, Kinh Thánh còn là một lịch sử giao ước tình yêu Thiên Chúa biểu lộ cho con người trải qua nhiều thời đại và nhiều cách thức. Do đó, Kinh Thánh là Lời để đọc, để suy, để chiêm, để nghiệm và để sống. Kinh Thánh không bao giờ lỗi thời hay hết mốt. Kinh Thánh luôn "hot", "new".

Bài 5: Thiên Chúa Đến Gặp Con Người

1. Thiên Chúa bày tỏ kế hoạch yêu thương
"Thiên Chúa nhân lành và khôn ngoan đã muốn mặc khải chính mình và tỏ cho mọi người biết mầu nhiệm thánh ý Người. Nhờ đó, loài người có thể đến cùng Chúa Cha, nhờ Chúa Kitô, Ngôi Lời nhập thể trong Chúa Thánh Thần, và được thông phần bản tính của Thiên Chúa" (DV 2).
Thiên Chúa đích thân tỏ cho con người thì con người mới biết Người là ai, đặc biệt hơn nữa là Ngài đã bày tỏ ý định yêu thương cho con người qua nhiều giai đoạn một cách tiệm tiến. Giống như đứa trẻ tiếp cận với nguồn tri thức thì phải học lần lượt từ mẫu giáo, lớp 1 rồi lớp 2... Cứ thế từ thấp lên cao. Thiên Chúa cũng sử dụng khoa sư phạm tiệm tiến để bày tỏ cho con người biết mầu nhiệm thánh ý Ngài.
2. Các giai đoạn mạc khải
Thuở đầu, Thiên Chúa tỏ mình ra cho tổ tông chúng ta, rồi Ngài thiết lập giao ước với ông Noe. Sau đó, Thiên Chúa tuyển chọn ông Ápraham, nhờ ông, mọi dân tộc sẽ được chúc phúc. Qua dòng dõi được tuyển chọn, Thiên Chúa huấn luyện dân được tuyển chọn là Israel để chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế.
3. Đức Giêsu Kitô là sự viên mãn của toàn bộ mạc khải
"Thuở xưa nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã dùng các ngôn sứ mà phán dạy cha ông ta; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy ta qua Con của Người " (Dt 1, 1-2). Ðức Ki-tô, Con Thiên Chúa làm người, là Lời duy nhứt, hoàn hảo và dứt khoát của Chúa Cha. Nơi Người, Thiên Chúa phán dạy mọi sự, và sẽ không có lời nào khác ngoài Lời đó" (SGLHT, 65).
4. Không còn mạc khải chung nào nữa
Mạc khải của Thiên Chúa đã được hoàn tất nơi Đức Giêsu Kitô, sẽ không còn mạc khải nào nữa. Tuy nhiên, trong lịch sử ta vẫn nghe nói đến những "mạc khải tư". Mạc khải tư là mạc khải được ban cho một cá nhân nào đó và được Giáo Hội công nhận. Loại mạc khải này không thuộc kho tàng đức tin. Nó không "cải thiện hoặc bổ sung Mạc Khải tối hậu của Đức Kitô, mà để giúp người ta sống Mạc Khải cách trọn vẹn hơn vào một thời điểm lịch sử" (SGLHT, 67).

Bài 4: Ngôn Ngữ Nói Về Thiên Chúa

1. Con người giới hạn
Phải nói một điều ngay từ đầu rằng con người là một thụ tạo có giới hạn. Con người dù có trí khôn trổi vượt trên các loài thụ tạo khác, thì cũng không thể hiểu thấu hết những sự trên đời, phương chi là Đấng Tạo Hoá. Con người chỉ có thể hiểu thế giới này ít hoặc nhiều chứ không ai hiểu được tất cả.
2. Có thể nói về Thiên Chúa
Vậy thì con người có thể nói về Thiên Chúa không? Dù bị giới hạn bởi không gian và thời gian, con người dựa vào vẻ đẹp thiên hình vạn trạng của các loại thụ tạo để nói về Thiên Chúa. Thiên Chúa vượt xa những gì con người có thể tượng tượng, nên con người phải không ngừng luyện lọc ngôn ngữ. Chúng ta có thể nói về Thiên Chúa một cách loại suy, ví dụ: chúng ta loại suy từ tình thương của người cha trong gia đình đối với con cái mình để nói về tình Thiên Chúa như người cha đối với con cái loài người; tuy nhiên, tình yêu thương của Thiên Chúa còn vượt xa hơn, hơn thế nữa! "Chúng ta không thể hiểu được Thiên Chúa như thế nào, mà chỉ hiểu được Người không như thế nào, và những hữu thể khác có vị trí nào trong tương quan với Thiên Chúa (thánh Tôma Aquinô).
3. Chân lý bất biến
Thiên Chúa là Chân Lý tuyệt đối và bất biến. Ngài trước sau như một, không hề thay đổi, không hề lừa dối ai và cũng không bị ai lừa dối. Chân Lý đó được chứa đựng trong kho tàng mạc khải của Thiên Chúa, tức là Thánh Kinh và Thánh Truyền.
4. Cách trình bày Chân Lý phải phù hợp
Chân Lý là một, trước sau vẫn thế. Còn cách trình bày thì có thay đổi theo dòng thời gian. Chân Lý Đức Tin mà các Tông Đồ đón nhận từ Đức Kitô như thế nào thì cũng được truyền lại cho các thế hệ sau và cho đến ngày nay cũng như vậy. Thời các Tông Đồ đi rao giảng không có internet, không có loa đài; còn bây giờ các môn đệ Đức Kitô đi rao giảng có thể sử dụng các phương tiện truyền thông để rao giảng. Con người ngày nay sẽ có suy nghĩ, não trạng khác với con người thời xưa; do đó khi rao giảng cho người ngày nay phải sử dụng những ngôn từ hay những biểu tượng phù hợp với tâm thức của người thời nay thì họ mới lãnh hội được sứ điệp cứu độ.