Phương Pháp Cầu Nguyện Bằng Lời Chúa

PHƯƠNG PHÁP CẦU NGUYỆN BẰNG LỜI CHÚA
Lectio Divina hay dụ ngôn về Viên Ngọc Quý

Lm. Athanasiô Nguyễn Quốc Lâm

I. Tìm về cội nguồn.
Hiến Chế Dei Verbum đã dùng những lời lẽ mạnh mẽ và tha thiết nhất để khuyên tất cả các Kitô hữu, không riêng thành phần nào, hãy trở lại với Thánh Kinh, với Lời Chúa, như là nền tảng của đời sống Giáo Hội, cũng như nguyên lý đổi mới đời sống thiêng liêng của mọi tín hữu :
“Giáo Hội luôn tôn kính Thánh Kinh như chính Thân Thể Chúa, nhất là trong Phụng Vụ Thánh, Giáo Hội không ngừng lấy bánh ban sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa cũng như bàn tiệc Mình Chúa Kitô để ban phát cho các tín hữu” (DV 21).
“Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô”. Vậy ước gì họ hăng hái tiếp xúc với chính bản văn Thánh Kinh, nhờ Phụng Vụ Thánh dồi dào Lời Thiên Chúa, hoặc nhờ sốt sắng dọc Thánh Kinh hay nhờ những tổ chức học hỏi thích hợp, hoặc bất cứ phương thế nào mà ngày nay đã được các chủ chăn trong Giáo Hội chấp thuận và ân cần phổ biến khắp nơi” (DV 25).
Bốn mươi năm sau, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam tiếp tục lập lại những lời thúc bách của Thánh Công đồng, đồng thời đề ra những đường hướng cụ thể, nhằm “mở rộng lối vào Thánh Kinh cho Kitô hữu” (TMV 7) cũng như “Để Lời Chúa đi vào cuộc sống” (TMV 10).
Hãy tiếp xúc với Kinh Thánh, hãy đọc, hãy học hỏi, gẫm suy và để cho Lời Chúa thấm nhập, đổi mới đời sống (x. DV 26) : lời kêu gọi đó khiến ta không thể không nhớ đến một truyền thống rất cổ xưa, nhưng với thử thách của thời gian, và biến động lịch sử, đã biến đổi, nếu không muốn nói gần như mai một trong phần lớn đời sống kitô hữu : Lectio Divina.
Một câu hỏi buộc phải đặt ra : Tại sao việc đọc và gẫm suy Lời Chúa, vốn là nội dung căn bản của Lectio Divina lại trở nên xa lạ như thế đối với chúng ta, những người không ngừng ca hát : “Lời Ngài là sức sống của con, Lời Ngài là ánh sáng đời con” ?
Ngay cả đối với đời sống đan tu, như nhận định của một đan sĩ ở Ligugé, là đan viện hết sức kỳ cựu của Châu Âu, Lectio divina ngày nay không phải là điều dễ dàng, không còn là điều “đương nhiên” nữa.[1] Tác giả nêu ra một vài khó khăn rất cụ thể mà các đan sĩ gặp phải :
- Về cách thức hay phương pháp : tuy đã có rất nhiều, nhưng không ai dám chắc đâu là con đường tốt nhất để đi theo, ai là vị thầy mình có thể học hỏi để biết đọc và suy gẫm Lời Chúa suốt cả cuộc đời.
- Tương quan giữa người đọc và bản văn : một khó khăn rất thực tế, đọc Kinh Thánh nhưng không tránh khỏi cảm giác như đọc bất cứ bản văn nào khác : nghĩa là chứa đựng một số hiểu biết, thông tin. Tra cứu, học hỏi, thậm chí suy gẫm Lời Chúa thường là để giải đáp một vấn đề, một thắc mắc, để xác minh hoặc áp dụng vào điều gì đó. Lectio dần dần đánh mất phẩm tính divina, và người đọc cũng không mấy xác tín đó là “lẽ sống” của mình. Tác giả không ngần ngại nói đến cảm giác “nhàm chán” của kẻ đọc bất cứ trang nào cũng cảm thấy mình đã “quá biết rồi”. Và để tránh cảm giác tai hại đó, người ta đề ra nhiều sáng kiến, trong đó có việc đọc Kinh Thánh bằng các ngôn ngữ khác nhau, với hy vọng một ngôn ngữ “lạ” buộc mình phải đọc chậm rãi , chú tâm hơn. Nhưng xem ra vẫn là một giải pháp khá vô vọng, vì nói cho cùng, cái mà người đọc phải đối diện, vẫn cùng là một bản văn.
- Cách thức tiếp xúc bản văn : phân vân giữa hai quan niệm. Một số người cho rằng, Lectio divina phải là một tiếp xúc trực tiếp với bản văn, không cần và không nên qua trung gian nào khác, ngay cả là các chú giải. Nhưng một số khác lại nghĩ rằng : không thể đọc Kinh Thánh nếu không có những hiểu biết cần thiết về Kinh Thánh : văn thể, văn mạch, văn cảnh, lịch sử hình thành, biên soạn… Nhưng chính điều này, nghịch lý thay, lại đưa tới một thứ “mauvaise conscience”, nghĩa là, vì biết mình không am tường các chú giải hiện đại, nên đối với một số đan sĩ, đọc là đọc thế thôi, chứ không dám nghĩ là mình hiểu được hay hiểu đúng. Đành tự an ủi, thôi thì cũng là “mất giờ cho Chúa” (temps perdu pour Dieu) ! Một số khác than : ngay cả bộ “Lectio divina” cũng nên đổi tên vì quá khó, quá chuyên môn, không giúp gì cho Lectio divina cả !
- Thống nhất đời sống : Lectio divina là một trong những thực hành căn bản của đời sống đan tu, nhưng không phải là duy nhất. Ngoài đọc và suy niệm Kinh Thánh, còn có phụng vụ, đọc sách thiêng liêng, học hỏi về Kinh Thánh, Thần học, và dĩ nhiên làm việc tay chân. Tất nhiên, có những người làm “hết việc này đến việc khác” với cùng một niềm hăng say, nhưng dường như không có sự thống nhất nội tại nào cả. Làm sao định vị được chỗ đứng của Lectio divina giữa ora và labora để đời sống monachos không phải là đời sống “một mình”, riêng lẻ (seul, isolé), rời rạc, mà là đời sống “thống nhất” (un, unité, monachos).
Vấn đề Lời Chúa trong đời sống người đan sĩ, monachos, nói cho cùng không phải chỉ là vấn đề của một thành phần trong Dân Chúa, nhưng là vấn đề của mỗi kitô hữu và của cả Giáo Hội : làm sao để Lời Chúa trở thành nguyên lý duy nhất và thống nhất tất cả đời sống kitô hữu, làm sao Lời Chúa đích thực là Thần Lương, nuôi dưỡng tất cả nhiệm thể Đức Kitô, Ngôi Lời Thiên Chúa, Đấng đã bày tỏ niềm mong ước thâm sâu nhất của mình : “để họ nên một như Chúng ta” (Ga 17,11).
Lectio divina không hề và không thể xa lạ đối với mọi Kitô hữu chúng ta.
II. “Lectio divina”
Theo nguyên ngữ Latin, lectio trước tiên có nghĩa là một giáo huấn, một bài học (teaching, lesson). Từ đó, Lectio được dùng để chỉ một bản văn hay nhóm bản văn truyền lại giáo huấn đó. Chính vì thế mà chúng ta gọi các giáo huấn rút ra từ Kinh Thánh đọc trong phụng vụ là “lectiones”, “các bài đọc”. Cuối cùng, lectio được hiểu đơn giản là “đọc”. Một cách hiểu hết sức giản lược so với nguyên nghĩa và chỉ xuất hiện về sau.
Ngày hôm nay, lectio divina quả thật thường được hiểu theo nghĩa cuối cùng này : Lection divina là một cách đọc Kinh Thánh đặc biệt. Dù khác với tất cả các cách đọc khác, nhưng tựu trung vẫn là đọc một bản văn.
Tuy nhiên, nếu trở lại với cội nguồn, về với thời các Giáo Phụ, kiểu nói “lectio divina”, lạ lùng thay, không trực tiếp chỉ về việc đọc, hay cách thức đọc, cũng không phải là một thực hành nào đó trong đời sống thiêng liêng người Kitô hữu, mà chỉ chính Kinh Thánh. Lectio divina đồng nghĩa với sacra pagina. “Lectio divina” là chính giáo huấn của Thiên Chúa mà chúng ta lãnh nhận, dù là đọc hay nghe, xuyên qua Kinh Thánh :
- Cyprianô : “sit in manibus divina lectio…” (De zelo et livore, cap. 16) [2]
- Ambrôsiô : “ut divinae lectionis exemplo utamur” (De bono mortis, cap. 1. par. 2).
- Augustinô : “aliter invenerit in lectione divina” (Enarr. In psalmos, ps. 36, serm. 3. par. 1).

III. “Lectio divina” bẢn văn hay là LỜi ngỎ(Parole adressée, Parole vive).
Ba đoạn trích ngắn gọn trên có lẽ đủ cho thấy, Lectio divina nguyên thuỷ không chỉ là đọc sách, cũng không đơn giản nằm trong tương quan giữa người đọc (lecteur) và bản văn (texte, écriture) nhưng là tương quan sống động giữa Lời ngỏ (Parole adressée) và kẻ nghe Lời, trong cuộc tương thoại : đón lấy, gặp gỡ, đón Lời vào trong cuộc sống.
Hơn nữa, đối tượng của Lectio divina không phải là bản văn cho bằng chính cuộc đời của kẻ lắng nghe. Chúng ta đã biết câu chuyện về cuộc trở lại của thánh Antôn mà thánh Athanasiô thuật lại :
“Cha mẹ qua đời, Ngài chỉ còn lại một mình với đứa em gái nhỏ… Chưa được sáu tháng chịu tang, trên đường tới nhà thờ như thường lệ, ngài vừa đi vừa suy nghĩ, nghiền ngẫm xem các tông đồ đã bỏ mọi sự theo Chúa làm sao ; các tín hữu, trong sách Công Vụ, đã bán của cải rồi đem tiền thu đặt dưới chân các tông đồ để giúp người túng quẫn như thế nào : Lớn lao thay niềm hy vọng của họ vào Nước Trời. Ngài bước vào nhà thờ mà lòng miên man với những ý nghĩ đó. Đến lúc đọc Phúc Âm, ngài nghe Chúa nói với người thanh niên giầu có : Nếu ngươi muốn nến hoàn hảo, hãy đi, bán tất cả những gì ngươi có, và cho người nghèo rồi hãy tới đây theo Ta, ngươi sẽ có một kho tàng trên Trời” [3].
Lời chú giải của thánh Athanasiô về tác động của “lectio divina” nơi tâm hồn Antôn thật gọn, nhưng có thể nói, đã nêu lên một trong những khía cạnh quan trọng và quyết định nhất của Lectio divina trong suốt lịch sử đời sống thiêng liêng : “Antôn nghe như Chúa nói với chính mình”.
“Lectio” trước hết nằm trong tiến trình “ap-propriation”, nghĩa là đón nhận Lời Chúa như thể là biến cố xảy đến cho mình hoặc như thể mình là kẻ “trong cuộc”, chứ không phải là ai khác, ngay cả là tác giả của bản văn. Có thể lấy lại lời người dân Samari nói với người phụ nữ : “không còn phải do lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian” (Ga 4, 42).
Lectio divina chính là Lời nhập thể (Parole incarnée, se fait chair) trong cuộc đời chúng ta và biến đổi cuộc đời chúng ta. Diễn tả theo ngôn ngữ của triết học hiện đại (Herméneutique), “đọc” không chỉ là hành vi của môi miệng hay khả năng của tâm trí, nhưng là sự giao thoa, gặp gỡ, thậm chí là “va chạm” giữa hai thế giới, thế giới bản văn (monde du texte) và thế giới của người đọc (monde du lecteur) [4].
Và cũng như sau bất cứ một cuộc gặp gỡ hay va chạm đích thực nào, không ai trở về mà lại không mang một vết thương [5]
IV. PhỤng vỤ, nôi sinh thành cỦa Lectio divina
- Nhưng làm sao Lectio Divina lại trở nên sống động và có sức biến đổi như thế trong đời sống Kitô hữu tiên khởi ?
- Nhờ Phụng Vụ. Phụng vụ chính là không-thời gian (espace-temps) trong đó Lectio Divina sinh thành và trở nên kinh nghiệm sống động hơn tất cả.
“Chính trong sinh hoạt phụng vụ mà Lời Chúa nên hiện thực hơn hết. Chỉ trong Giáo Hội, Thân Thể của Đức Kitô, mà Lời tiếp tục hiện diện giữa chúng ta, và ngỏ với chúng ta ngay trong hiện tại. Nhưng Giáo hội xuất hiện như “cộng đoàn đức tin” (communauté de foi) nhất là khi qui tụ để cử hành cái chết và sự phục sinh của Chúa. Chính trong thời gian cử hành đó mà Giáo Hội cảm nghiệm việc Lời, tức là Đức Kitô Chúa, không ngừng phó mình, tự trao hiến cho chúng ta, ngõ hầu chúng ta được thông dự vào ơn làm con Thiên Chúa.” [6]
Đối với P. Evdokimov, “kinh nguyện phụng vụ là qui luật của mọi kinh nguyện” : “La prière de l’Eglise porte le frémissement de la révélation biblique, elle vient de la totalité de la Vérité et y culmine. C’est pourquoi, toute règle de prière débute par une invocation trinitaire et inclut la confession du Crédo”.[7]
P. Nouzille : “Phụng vụ chủ yếu xây dựng trên các bản văn rút ra từ Kinh Thánh : ngoài các bài đọc (lectures) theo nghĩa chặt, còn có các Thánh Vịnh, các xướng đáp, điệp ca rồi các đoạn Kinh Thánh rải rác trong suốt cử hành, và các bài hát cũng hầu như rút ra từ Kinh Thánh. Phụng vụ chính là tiếng hát của Kinh Thánh” (La liturgie, c’est le chant de l’Ecriture). [8]
Các trích dẫn trên ít nhất cho thấy một điều : cũng như kinh nguyện cá nhân của Kitô hữu không tách rời với các cử hành phụng vụ của tất cả cộng đoàn, “lectio” cũng không thể tách rời khỏi việc lắng nghe Kinh Thánh trong phụng vụ”.[9]
Có thể nói, Phụng Vụ chính là mái trường, nơi chúng ta có thể học lấy những định hướng căn bản cho Lectio divina mà chúng ta cố gắng khai triển sau đây.
V. Tương quan song đỐi giỮa bàn tiỆc LỜi Chúa và bàn tiỆc Thánh ThỂ : “LẠy Chúa con chẲng đáng Chúa ngỎ lỜi”
Nói đến Lectio divina không ít người nghĩ ngay đến phương pháp hay cách thức đọc Kinh Thánh, thế nhưng quan tâm căn bản của truyền thống các Giáo Phụ không phải là phương pháp (méthode) mà là thái độ (attitude, disposition) : chúng ta đã “đến với Lời Chúa”, “đặt mình trước Lời Chúa”, “rước”, nghiền ngẫm (manducatio, ruminatio) Lời Chúa” như thế nào ? Đó là những kiểu nói mà ngày nay thường chỉ còn áp dụng đối với hiện diện Thánh Thể, nhưng các Giáo phụ lại áp dụng ngay cả đối với hiện diện của Lời :
- Khổ chế, cầu nguyện trước Lời Chúa : Vì là lectio divina, nên không thể đến với Lời Chúa bằng một tâm hồn trần tục. Hermas dạy rằng, khổ chế và cầu nguyện đó chính là cách nêu lên câu hỏi mà Chúa sẽ trả lời bằng cách mạc khải ý nghĩa của Sách Thánh.[10] “Hiểu điều chúng ta đọc là ơn của Thiên Chúa” [11] (thánh Syméon).
- Khẩn nguyện Thiên Chúa trước khi đọc : “Trước khi đọc, hãy luôn cầu nguyện và khẩn xin Thiên Chúa để Người tự mạc khải cho con” (thánh Athanasiô).[12]
- Khẩn xin với chính Đức Kitô : “Lạy Chúa Giêsu Kitô, xin hãy mở mắt tâm hồn con để con có thể hiểu và hoàn thành ý muốn của Chúa… xin hãy lấy Ánh Sáng của Người mà dọi sáng đôi mắt con” (lời cầu nguyện của thánh Gioan Kim Khẩu trước Sách Thánh).[13]
- Epiclesis : Khẩn xin Thánh Thần, vì Lời chỉ trở nên sống động (Parole vivante) là nhờ Thánh Thần ngự xuống, cũng như Ngài đã đậu xuống trên Đức Kitô trong biến cố Hiển Linh (Epiphanie)[14]. Chúng ta thường khẩn xin ơn Thánh Thần soi sáng trước khi đọc Lời Chúa, nhưng ở đây không chỉ có thế, vì Thánh Thần làm cho hiện diện (trong Thánh Thần mà đức Kitô “đến”), tương tự như vai trò của Thánh Thần đối với hiện diện Thánh Thể (présence eucharistique). Sau này, Nicodème l’Hagiorite (÷ 1809), một chuyên viên về linh đạo các giáo phụ, đã có thể nói “phương pháp chính yếu để đọc Kinh Thánh đó là đi từ lời ghi chép tới lời bản thể” (de la parole écrite à la parole substantielle),[15] “lời bản thể” ở đây không gì khác hơn là hiện diện sống động của Lời, nghĩa là của chính Đức Kitô.
- Đến với Đấng hiện diện trong (nơi, qua) Lời : “Trong các Lời Kinh Thánh có sự hiện diện của Chúa, hiện diện của Đấng mà ma quỉ không thể chịu nổi” [16] (thánh Athanase). “Chính Ngài là Đấng tôi tìm kiếm trong các sách [Kinh Thánh]” [17] (thánh Augustinô).
- “Rước” Lời Chúa (Communion) (ăn / manducatio, nghiền ngẫm / ruminatio). Clément d’Alexandrie đã từng nói đến việc rước lấy mầm sự sống (semences de vie) chứa đựng trong Kinh Thánh giống như rước Thánh Thể.[18] Nhưng chính Origène là người xác định rõ ý nghĩa của việc “ăn” (manducation) Lời Kinh Thánh cho cả truyền thống về sau : như bí tích Thánh thể, “chúng ta ăn Lời bẻ ra cách huyền nhiệm” (on consomme “eucharistiquement” la “parole mystérieusement rompue”).[19] Thánh Jêrôme cũng khẳng định tương tự : “Chúng ta ăn thịt và uống máu Người trong bí tích Thánh Thể cũng như trong việc đọc Sách Thánh”.[20] Còn thánh Grégoire de Nazianze thì đồng hoá việc đọc Kinh Thánh với việc ăn Chiên Vượt Qua.
- Rước lấy Lời Chúa trong khiêm hạ và trong lòng mến : “Nếu ngươi muốn đạt đến tri thức đích thực về các Sách Thánh, trước tiên hãy hăm hở mang lấy tấm lòng luôn biết khiêm hạ. Chính sự khiêm hạ sẽ dẫn ngươi đến không phải một tri thức làm vênh vang, nhưng là một tri thức soi sáng, nhờ biết rước lấy (ăn) trong lòng mến” (Cassien).[21]
- Trở thành con người mới, mục đích tối hậu của Lectio : Lectio chỉ hoàn tất khi biến đổi chúng ta thành con người mới trong Đức Kitô, và điều này chỉ có thể hoàn tất qua tất cả cuộc sống : “Không có phương thức nào đạt tới tri thức thiêng liêng ngoại trừ rập theo trật tự mà một trong các tiên tri đã diễn tả cách tuyệt vời như sau : “Hãy gieo sự công chính. Hãy gặt lấy niềm hy vọng cho cuộc sống. Hãy thắp lên nơi ngươi ánh sáng của tri thức”.[22] Lời của tiên tri Hôsê đúng cách lạ lùng với đoạn thư nổi tiếng của thánh Phêrô mà Dei Verbum (III, 11) lập lại : “Như vậy, chúng tôi lại càng thêm tin tưởng vào lời các ngôn sứ. Anh em chú tâm vào đó là phải, vì lời ấy như chiếc đèn tỏ rạng giữa chốn tối tăm, cho đến khi ngày bừng sáng và sao mai mọc lên chiếu soi tâm hồn anh em” (2Pr 1,19).
Tương quan song đối giữa hai bàn tiệc Lời Chúa và Thánh Thể nói cho cùng phát xuất từ chính mầu nhiệm độc nhất vô nhị của Ngôi Lời (Verbe comme Personne) : Lời trở thành Hiện Diện trọn vẹn (Parole présente), và Hiện Diện là Hiện Diện trọn vẹn của Lời (Présence parlante).
Chính từ sự giao thoa này mà chúng ta có thể nói :
- Nơi Bí Tích Thánh Thể, chúng ta đón nhận một “hiện diện thực” đến mức Hiện Diện đó “nói” với chúng ta : “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời, thì linh hồn con sẽ lành mạnh”.
- Trong Lectio Divina, chúng ta đón nhận lời (verba) đến mức, Lời (Verbe) trở thành “hiện diện” với chúng ta. Phải chăng khi đọc Lời Chúa, chúng ta cũng có thể thưa lên : “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngỏ lời với con, nhưng xin Chúa hãy ngự đến, thì linh hồn con sẽ lành mạnh” ?
VI. Các nghĩa cỦa Kinh Thánh hay nhỮng chẶng đưỜng cỦa hành trình thiêng liêng
Tương quan mật thiết giữa Phụng vụ và Lectio divina, như đã phân tích trên, cho thấy “Lectio” (đọc) chỉ là một khía cạnh của tiến trình mà nói chung, truyền thống thiêng liêng, đã phân tích thành : lectio hay studium, meditatio, oratio, comtemplatio.
Ở đây, chúng ta dễ dàng nhận ra mối tương quan mật thiết, gần như song song, giữa bốn nghĩa Kinh Thánh (từ Origène cho đến Thomas [23]) và bốn cấp độ của Lectio divnia :
littéral (ou historique) – allégorique – tropologique (ou moral) – anagogique
lectio – meditatio – oratio – contemplatio
Thế nhưng, như nhận định của B. Calati, trong Dictionnaire de la vie spirituelle, đây không chỉ là những cấp độ đào sâu Kinh Thánh trên bình diện tri thức hay tâm lý, mà là những chặng đường của tiến trình “nội giới hoá” (intériorisation), qua đó Lời Thiên Chúa ngày càng thấm nhập và biến đổi tất cả đời sống chúng ta trong chính hoàn cảnh sống cụ thể nhất.[24] Cũng có thể nói, đó là những chặng đường của tiến trình “nâng cao” (élévation) theo nghĩa mạnh của Kinh Thánh.
Guigues II, le Chartreux cho rằng, bốn cấp độ của Lectio divina tương ứng với bốn cấp độ khác nhau của hành trình thiêng liêng :
“Cấp thứ nhất – lectio – dành cho người mới khởi đầu (commencant), cấp thứ hai – meditatio – cho người đã tiến bộ (progressant), cấp thứ ba – oratio – cho người đạt đức (fervent) - và cấp thứ bốn – contemplatio – cho bậc chân phúc (bienheureux)”.[25]
Tắt một lời, lectio divina không chỉ là công việc của một lúc mà là một đời.
VII. Lectio divina hay Lectio evangelica ?
Trong phụng vụ, chủ thể lắng nghe và ngợi ca là “chúng ta” chứ không phải chỉ là cá thể. Lectio divina trong cuộc sống cũng thế, dù chỉ đọc Lời Chúa một mình trong phòng riêng, vẫn là “cùng với tất cả”.[26] Lectio divina là cách thức chúng ta sống theo nhịp sống, nhịp cử hành của Giáo Hội, chính vì thế mà nhiều người đã dùng các bài đọc Phụng vụ làm Lectio Divina, điểm nhịp cho những gẫm suy và những lời cầu nguyện của mình trong đời thường, để biến đổi nó. Và đây mới là điều đáng kể.
Thật vậy, mảnh đất cuộc đời mới thực là “đích điểm” của Lectio divina, cho dù “contemplatio” thường được coi như tột đỉnh và được hiểu theo nghĩa “thưởng nếm” trong hoan lạc (jouir, savourer) [Cassien : “Ravie hors des sens et de tout le visible, c’est par des gémissemements ineffables et des soupirs que l’âme s’épanche vers Dieu” [27] Guiges II Le Chartreux : “La contemplation est une certaine élévation en Dieu de l’âme attirée au-dessus d’elle-même et savourant les joies de la douceur éternelle” [28]]. Thế nhưng, “thưởng nếm” là khoảnh khắc thiên đàng mà ngay cả các thánh cũng hết sức thận trọng, ít nhất trong thân phận lữ hành. Đó là lý do tại sao các nhà thần bí thường nói đến những “đêm tối giác quan”, “đêm tối đức tin”, trước khi có thể ấp úng chút gì về kinh nghiệm khôn tả.
Có lẽ phải trở lại với Isaia 55,10-11 :
Vì cũng như mưa với tuyết từ trời sa xuống,
tất không lùi lại về trời, nếu đã không thấm nhuận đất đai, nếu không làm cho đất sinh sản, nảy chồi…
Cũng vậy lời của Ta, một khi đã xuất tự miệng Ta, sẽ không về lại với Ta hư luống…
Với Luca 4,16-20, về “Lời ứng nghiệm” :
Người đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó,
Ban bố ân xá cho kẻ tù đầy,
cho người đui mù được thấy, cho kẻ áp bức được giải oan,
loan báo năm hồng ân của Chúa…
Và với một cách ngôn (apophtegme) thời các Giáo Phụ :
Vào lúc tiết trời hết sức buốt giá, Serapion gặp một người nghèo, hoàn toàn trần trụi, ở Alexandria. Vị đan sĩ thầm nhủ : “Đây là Đức Kitô, và mình sẽ là tên giết người nếu để anh ta chết mà không cứu giúp”. Nghĩ vậy, Serapion cởi hết áo xống cho người nghèo đó. Rốt cuộc đến lượt Serapion, không còn gì trên người, ngoại trừ cuốn Tin Mừng dưới cánh tay… Thế rồi có kẻ tình cờ đi qua và vì biết ngài, nên hỏi : “Cha Serapion, ai lấy hết áo xống của cha vậy ?” Serapion chỉ cuốn Tin Mừng và nói : “Đây là Đấng đã lấy hết áo xống của ta”. Thế rồi Serapion đi đến một chỗ khác và lại gặp thấy một người đang bị điệu vào nhà tù vì không trả được nợ. Động lòng thương, Serapion trao ngay cuốn Tin mừng cho anh ta, để bán đi mà trả.
Khi Serapion run rẩy trở lại phòng riêng, thì một môn đệ đến hỏi quần áo của ngài đâu, Serapion trả lời là đã gửi tới nơi cần hơn là thân thể của mình. Một đệ tử khác thắc mắc : Thế còn cuốn Tin Mừng ?
Serapion đáp : Ta đã bán Đấng vẫn thường xuyên nói với ta : “Hãy bán của cải mình đi mà bố thí”. (Lc 12, 33). (I have sold the one who continually told me : Sell your goods, and give to the poor)
Lời đến không chỉ để nâng cao “trạng thái tâm hồn” (états d’âme !) mà là chính cuộc sống (la vie elle-même), cuộc sống của mỗi người và của cả thế giới này. Lời đến là vì một Trời Mời Đất Mới, nghĩa là một thay đổi tận trong chiều sâu hữu thể của tất cả thực tại. Nếu không phải là “biến bản thể” (transsubstantiation), thì ít nhất cũng là “biến hình” (transfiguration).
Lời chỉ trở về trời cao khi đã thấm sâu, làm biến đổi và trổ sinh sự sống mới. Như đã nói trên, thánh Clément d’Alexandrie khuyên hãy tìm kiếm “những mầm sống” (semences de vie) nơi Lời Chúa.[29]
Lectio divina chính yếu trong Phụng Vụ là gì nếu không phải là “Công bố Tin Mừng” ? Vậy Lectio divina hay Lectio evangelica ?
“Serapion chỉ vào Tin Mừng và nói :
Đây là Đấng lấy hết áo xống của ta !”
VIII. Scriptura crescit cum legente (Kinh Thánh lỚn lên cùng vỚi ngưỜi đỌc).[30]
Xin được kết thúc phần trở về với cội nguồn của Lectio divina bằng khẳng định hết sức cổ xưa nhưng rất lạ lùng này. Cổ xưa vì nó xuất hiện ngay từ những thế kỷ đầu tiên trong kinh nghiệm thiêng liêng của Kitô hữu, nhưng lạ lùng vì ngày nay, ngay trong suy tư của triết học hiện đại (Herméneutique), nó được xem như một nguyên lý về chú giải.
- Trước hết, nguyên lý đó phá vỡ định kiến thâm căn cố đế của chúng ta, theo đó, bản văn thường được (bị) coi như một “đối tượng cố định”, chỉ cần xem xét, nghiên cứu, tìm hiểu là có thể “lột” ra các ý nghĩa chứa sẵn trong đó. Thế nhưng Ý nghĩa không phải là điều gì đó (quelque chose) chúng ta có thể “nắm lấy”, ngược lại, nó chính là điều “nắm lấy” chúng ta, buộc chúng ta phải suy nghĩ, đặt lại vấn đề, hoặc quyết định và có khi phải hiến dâng cả cuộc đời. Ý nghĩa lớn lên cùng với chúng ta.
- Thứ đến, nó mở lối cho một quan niệm tích cực, toàn diện và thực sự mới mẻ về một trong những hành vi đơn giản nhất của kinh nghiệm nhân linh : đọc một bản văn (lecture). Tất nhiên, bản văn nói đến ở đây không phải là bất cứ bản văn nào. Có những loại đặt vấn đề cũng như mang lại thông tin về mọi chuyện. Có những bản văn chất vấn chính cuộc đời chúng ta và có khi trở thành nền tảng cho một cuộc sống hoàn toàn khác (texte fondateur). Loại thứ nhất chúng ta có thể đặt dưới mắt mình mà đọc. Loại thứ hai chúng ta chỉ có thể đọc khi “đặt mình trước bản văn”, nghĩa là chấp nhận đối chiếu, “va chạm” giữa “thế giới của bản văn” và “thế giới cuộc sống” của mình. Theo nghĩa này, kẻ thực sự đọc, không chỉ là kẻ “cầm trí cầm lòng” mà là kẻ “cầm chính cuộc đời mình” đến với bản văn. Kẻ đọc như thế đem theo cả những lo âu, dằn vặt, mơ ước, thậm chí tham vọng của mình, đối diện với những tra vấn, kêu gọi, hay niềm hy vọng mà bản văn mang đến. Tắt một lời, kẻ không mang theo niềm hy vọng nào khi đọc bản văn như thế thì cũng không thể hy vọng gì ở bản văn, và kẻ không chấp nhận để cho bản văn tra vấn mình thì cũng không thể đụng tới cái gọi là “ý nghĩa” của nó.
- Đọc theo nghĩa đối chất (confrontation), đối thoại đó, người đọc không thể không có kinh nghiệm này : “không ai đọc hai lần trên cùng một bản văn”, xin được nhại lại câu nói lừng danh của triết gia Héraclite ! Mỗi lần đọc là một cuộc gặp gỡ, một khám phá, hay ít nhất là một kinh nghiệm thực sự mới mẻ về chính mình và về Lời kêu gọi mình. Ý thức về tội lỗi và ân sủng, qua chứng từ của các thánh, tương ứng với mức độ nghiền ngẫm và đối chiếu cuộc sống mình với đòi hỏi của “Lời đến” (Parole advenante).
Trong viễn tượng này, Tin Mừng có bao giờ cũ hay đơn thuần chỉ là lập lại nơi suy niệm của các thánh hay nơi cuộc đời những con người như Phanxicô hay Têrêxa Hài Đồng… Ngược lại, chính qua việc đọc và nhất là qua cuộc đời của họ mà Kinh Thánh như thể lớn lên, mang lấy những ý nghĩa mà chính bản văn không thể “nói” cho chúng ta được : từ chữ “nghèo” trong Tin Mừng, đến chữ “nghèo” trên môi miệng và cuộc đời của Phanxicô, vẫn là một, nhưng không phải “y nguyên” (le même) cho bằng là “chan chứa” (l’excès).
Lectio divina không phải là con đường một chiều, mà là một “viên trình” (cercle herméneutique), nghĩa là càng thấm thía Lời Chúa thì càng vươn cao, và càng vươn cao thì càng khám phá những ý nghĩa mới lạ, như chưa bao giờ…
Có lẽ trong viễn tượng này mà thánh Augustin đã viết cách thật táo bạo : “kẻ đạt tới sự trưởng thành về đức tin, về niềm cậy trông và lòng mến thì không còn cần đến Kinh Thánh nữa”.[31]
Cuối cùng, “Kinh Thánh lớn lên với người đọc” chỉ có nghĩa khi lectio divina là hành vi của niềm hy vọng. Không những chúng ta hy vọng ở Lời Chúa mà sâu xa hơn, chính Lời Chúa đặt hy vọng nơi chúng ta.
Phải chăng đó là ý nghĩa thẳm sâu nhất của mầu nhiệm “Lời tự hạ” [32], mang lấy thân phận của ngôn ngữ đối thoại : Chấp nhận lên tiếng nói, cũng là chấp nhận chờ được trả lời !
Vì không một Lời (Wort) nào có thể trọn vẹn,
nếu không được đáp-lời (Ant-wort).[33]

ĐỂ GIỮ LẠI CHÚT GÌ…
Có những trang sách đến với ta
như những giọt sương sớm,
làm tươi mới
hay có khi đánh thức dậy cả ý thức ngủ quên.
Vì thế, thay cho lời kết
và như một tóm tắt để giữ lại chút gì,
xin được trích lại những giòng cô đọng
nhưng thật sống động của Paul Evdokimov
về Lectio Divina,[34]
vốn gợi hứng rất nhiều cho bài viết này,
trong tác phẩm “Tuổi thiêng liêng”,
như là kinh nghiệm nền tảng
của những thế hệ Kitô hữu đầu tiên,
như là “tình yêu thuở ban đầu”…
“Chớ gì mặt trời lên thấy bạn đang cầm Kinh Thánh trong tay”.
Lời khuyên của Evagre tóm tắt cách tuyệt vời truyền thống các giáo phụ. Khoản 19 của Công đồng “in Trullo” đã truyền cho các linh mục phải dẫn các tín hữu và trong mối liên hệ thật thâm sâu với Kinh Thánh. Còn thánh Gioan Kim Khẩu thì nhấn mạnh đến mức kêu lên : “Một số kẻ trong các người bảo tôi không phải là đan sĩ… Thế nhưng đó chính là sai lầm của các người, nghĩ rằng Kinh Thánh chỉ liên hệ đến các đan sĩ, và quên rằng, Kinh Thánh còn cần thiết hơn nữa cho những kẻ sống giữa đời. Không đọc Kinh Thánh đã là tệ, cho rằng đọc Kinh Thánh vô ích còn tệ hơn biết bao nhiêu !”
“Từ nhà thờ trở về, người chồng sẽ phải lập lại những gì đã nghe đọc ; và như thế ngoài việc chuẩn bị bàn ăn vật chất, người ta còn chuẩn bị bàn ăn thiêng liêng”. Và thánh nhân khuyên tín hữu hãy học hỏi đoạn Kinh Thánh sẽ đọc ở nhà thờ và liệu sao cho con cái biết chuyên chú đọc Thánh Kinh mỗi ngày.
Theo Origène, đọc Kinh Thánh không phải chỉ là một thực hành nào đó thêm thắt vào cuộc sống, mà là yếu tố cấu tạo nên đời sống thiêng liêng, giúp biến đổi đời sống hằng ngày nên như một “lecture vivante de la Parole”, trở thành nơi mà Lời không ngừng ngỏ với chúng ta. Đọc lời Chúa trở thành yếu tố dẫn đạo cho cuộc chiến đấu cũng như sự tiến bộ thiêng liêng, và cũng nhờ đó mà tâm hồn chúng ta trở thành anima ecclesiastica (tâm hồn giáo hội), và con người trở thành “théodidacte”, nghĩa là những môn sinh của Thiên Chúa, theo như lời của Clément d’Alexandrie.
Trong Qui Luật của thánh Pacôme, Kinh Thánh nuôi dưỡng tinh thần người đan sĩ trong tất cả ngày sống. Giờ làm việc, họ đọc và xướng hát Lời Chúa, khi chiều về, lại quây quần để lắng nghe những lời chú giải. Đọc Kinh Thánh thuộc lòng trở thành phổ biến. Đối với thánh Nil, sự đói khát Kinh Thánh chính là thước đo con người thiêng liêng của chúng ta. Còn thánh Isaac thì cho rằng : “Suy niệm Lời Chúa thường xuyên đó là ánh sáng của tâm hồn”.
Tuy nhiên, có một điều mà các bậc thầy về thiêng liêng thường xuyên nhắc nhở, đó là đừng tục hoá Lời Chúa bằng cách coi đó như cơ hội cho lý luận phù phiếm hay thành đối tượng của tri thức suông, bởi chưng : “Hiểu những gì chúng ta đọc, đó là ơn của Thiên Chúa”. Theo giáo huấn của Hermas, khổ chế và cầu nguyện có thể coi như là cách thức đặt câu hỏi mà Chúa sẽ trả lời bằng cách mạc khải nghĩa của Kinh Thánh. Cũng thế, trong giờ kinh thứ chín có lời : “Giữa hai tên trộm cướp, Thập Giá Ngài như cán cân công lý, một bên trĩu xuống tận hoả ngục dưới sức nặng của tội lộng ngôn phạm thượng, còn bên kia trút hết tội khiên để được hiểu biết Lời Chúa”.
Như thế việc đọc Kinh Thánh giả thiết tâm hồn cầu nguyện, như thể là môi sinh cho lời được chín mùi : “Nhờ cầu nguyện mà Thiên Chúa soi sáng và giúp tâm trí chúng ta hiểu được điều mình đọc”. Thiên Chúa nhập thể là “để hiện diện thâm sâu nơi chúng ta hơn cả linh hồn”, giúp chúng ta mang lấy “những tâm tình của chính Đức Kitô”, ngõ hầu có thể nghe được chính cách Đức Kitô đọc Tin Mừng, là cách đọc chân thật duy nhất. Vì, như lời của Nicolas Cabasilas “Tin mừng chính là nơi khuôn mặt của Đức Kitô hiện lộ”, có nghĩa là, Tin Mừng để cho Đức Kitô nói về chính Ngài và khiến cho đôi mắt và trái tim chúng ta được no thoả “Đấng lôi kéo về một mình Ngài và hiệp nhất với một mình Ngài mà thôi”. Còn theo Justin, Kinh Thánh đưa tới cuộc gặp gỡ quyết định và mỗi cuộc tử đạo là chứng từ về cách hiểu đúng đắn lời Chúa, nghĩa là, bằng chính cái chết của mình.
Theo Nicodème l’Hagiorite, phương pháp chính để đọc Kinh Thánh đó là “đi từ lời ghi chép tới lời bản thể”. Các chú giải của các giáo phụ có thể coi là những bản chỉ đường chắc chắn cho cuộc vượt qua, cho sự vươn tới đời sống thiêng liêng đó.
Các giáo phụ sống Kinh Thánh, suy tư, nói bằng lời Kinh Thánh, với sự thấm nhập, nhuần nhuyễn đến lạ lùng, đến mức con người họ nên một với bản thể Kinh Thánh. Nếu biết nghe giáo huấn của các ngài, ta sẽ hiểu ngay rằng, “Lời đọc”, “Lời lắng nghe” (Parole lue, entendue) luôn luôn đưa dẫn tới chính ngôi vị sống động của Lời (Personne vivante du Verbe). Thánh Gioan Kim Khẩu cầu nguyện như sau trước Sách Thánh : “Lạy Chúa Giêsu Kitô. Xin mở mắt tâm hồn con để con có thể hiểu và thực thi ý muốn của Chúa… xin hãy soi sáng mắt con, bằng ánh sáng của Ngài”. Cũng thế, thánh Êphrem khuyên : “Trước khi dọc, hãy cầu nguyện và khẩn xin Thiên Chúa, để Người tự mạc khải cho con”. Và Thánh Athanase khẳng định “Trong các lời Kinh Thánh có sự hiện diện của Chúa, Đấng mà ma quỉ không thể chịu nổi sự hiện diện của Ngài”.
Ta có thể nói rằng, đối với các Giáo Phụ, Kinh Thánh là Đức Kitô, vì mỗi lời trong đó đều đặt chúng ta trước hiện diện của Ngài : “Đấng mà tôi tìm kiếm trong các sách, là Ngài”, thánh Augustino tự thuật.
Thánh Clément d’Alexandrie từng cho thấy rằng, như chúng ta đã được dưỡng nuôi bởi Bí tích Thánh Thể thế nào, thì đối với Kinh Thánh cũng thế, chúng cũng ta cần được nuôi dưỡng bởi những mầm sống chứa đựng trong đó. Nhưng chính Origène mới là xác định ý nghĩa của việc “ăn” Lời Chúa (consommation), mà truyền thống về sau tiếp tục lấy lại : ta rước lấy “lời bẻ ra cách huyền nhiệm” như là rước Thánh Thể (on consomme “eucharistiquement” la “parole mystérieusement rompue”). Thánh Jérôme cũng nói y như thế : “Chúng ta ăn thịt và uống máu Ngài trong Bí tích Thánh Thể, và cả trong việc Đọc Kinh Thánh nữa”. Còn thánh Grégoire de Nazianze thì đồng hoá việc Đọc Lời Chúa với việc ăn Chiên Vượt Qua.
Rước Lời Chúa như Rước Thánh Thể giả thiết “épiclèse”, tức là lời khẩn xin Thánh Thần. Lời trở thành sống động là nhờ Thánh Thần ngự xuống, như Người đã từng ngự xuống trên đức Kitô trong mầu nhiệm Hiển Linh (Épiphanie). Như thế việc đọc Lời Chúa luôn mang chiều kích Thánh Linh, là chiều kích của Thân Thể Đức Kitô, của Giáo Hội, của Truyền Thống, là nơi mà Lời tiếp tục lên tiếng. Thiên Chúa đã muốn Đức Kitô làm nên Thân Thể, nơi đó lời của Người vang lên như là lời sự sống (paroles de vie), vì thế cần phải đọc và lắng nghe trong Đức Kitô, bên trong Ngài, tức là trong Giáo Hội. Chỉ có Giáo Hội mới gìn giữ Lời, vì Giáo Hội có Thần Khí, đấng truyền dạy Giáo Hội, như lời của Origène.
Khi cử hành phụng vụ, đoàn dân được triệu tập trước tiên để lắng nghe và sau đó “rước lấy” Lời hiện diện. Chính việc lắng nghe xây dựng dân Thiên Chúa, chuẩn bị tâm hồn để rước lấy Lời, đi vào hiệp thông bản thể với Lời. Tin mừng theo Luca nói với chúng ta rằng đức Kitô “mở trí cho các môn đệ” và chỉ cho họ cách đọc Kinh Thánh như thế nào để khám phá ra rằng, “mọi điều ghi chép trong đó đều nói về Ta”, “và khởi từ Môsê, các sách Ngôn Sứ, Ngài giải thích cho họ, trong tất cả Kinh Thánh, những gì liên quan đến Ngài”. Theo nghĩa này, Chúa “đã khai mở ý nghĩa của các Sách Thánh” và mạc khải cho biết tất cả Kinh Thánh là “Ngôn Ảnh” (icône verbale) của Đức Kitô.
Khi đọc Kinh Thánh, ta có thể biện biệt nghĩa tiên trưng, biểu trưng cũng như sự hoàn tất các tiên tri trong thời thiên sai, nghĩa là thời Đức Kitô đến. Ta cũng có thể hiểu được nghĩa lịch sử, cánh chung cũng như sự hoàn tất Lịch Sử, mở ra với Nước Thiên Chúa. Thế nhưng, chính phụng vụ mới cung cấp phương pháp suy niệm mang chiều kích giáo hội, trong đó Lời được công bố, ca hát, nguyện xin và đi vào trong cuộc sống. Phụng vụ tiếp tục trải dài trong đời sống Kitô hữu, qua lectio divina trong cuộc sống hằng ngày, như một hình thái cầu nguyện và hiệp lễ. Chính qua lectio divina trong cuộc sống hằng ngày mà Thiên Chúa ngỏ lời, can thiệp trong đời sống của mỗi người và mời gọi mỗi người lên đường cùng với các thiên thần và các tông đồ. Cách đọc như thế sẽ trở nên nguồn suối của cuộc sống và là sự hoàn tất cuộc sống. Theo thánh Chrysostome, lectio divina chính là tác vụ tư tế của người giáo dân, một tác vụ đưa họ đến sự thánh thiện.
Chính vì thế, mỗi khi đọc và suy gẫm bản văn, chúng ta cần tránh, không những sự khô khan lạnh lùng của lý luận suông, mà còn cả những tưởng tượng mông lung của cảm xúc. Chúng ta rất dễ biến bản văn thành xác không hồn, chúng ta không thể đem lại sự sống cho bản vản, vì sự sống đến từ hiện diện của Thiên Chúa.
Ta có thể đọc Kinh Thánh cách liên tục, trải dài trong năm, cũng có thể chọn một cuốn sách hay theo một chủ đề xuyên suốt các sách ; có thể suy niệm một đoạn, hoặc chỉ một lời. Mọi phương pháp đều tốt, nếu việc đọc thực sự nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của chúng ta. Ngoài hiểu biết còn có chiêm niệm. Mô tả gợi ra các thực tại lịch sử, còn chiêm niệm giúp nắm bắt chiều sâu thầm lặng của những thực tại đó. Khi khởi đi từ Lịch Sử, mọi cách đọc đúng đắn đều quan chiêm hình tượng Nước Trời (icône du Royaume).
Dụ ngôn về viên ngọc quí (Mt 13,45-46)
là dụ ngôn viết dở dang,
bởi khi đã được mua rồi,
không ai rõ số phận viên ngọc sẽ ra sao ?
Bởi lẽ có những cuộc sống
để nó toả chiếu rạng ngời,
và cũng có những trang đời,
nơi nó hoàn toàn bị lãng quên,
và lại trở thành “viên ngọc chờ đợi”…

[1] J.-L Souletie et H.-J. Gagey, La Bible, Parole adressée, Cerf, Paris, 2001, p. 98-116.
[2] Cyprien de Carthage, De zelo et livore 16, 1. 294, éd. M. Simonetti, Turnhout, Brepols, 1976, Corpus Christianorum series latina 3 A ; De dominica oratione 7, 1. 93, éd. C. Moreschini, ibid. ; xem Charles Dumont, “La “lectio divina” pour prier”, Collectanea Cisterciensia 59 (1977), p. 13-15.
[3] B. Lavaud “Lettres Chrétiennes” n.4, p. 23-24. Bd. việt ngữ, J. Liébaert, Giáo Phụ, tập I, trg. 289.
[4] x. La Bible Parole adressée, op. cit., p. 182-187.
[5] Lectio divina phải chăng có thể hiểu như cuộc vật lộn giữa Giacóp với Thiên Chúa (St 32, 23-30) : chỉ “buông tha” khi được biết Chúa và được Người chúc lành ?
[6] B. Calati, in Dictionaire de la vie spirituelle, art. Parole de Dieu, Cerf, Paris, 1987, p. 794
[7] Les âges de la vie spirituelle, op. cit., p. 200.
[8] La Bible, Parole adressée, op. cit., p. 101-102.
[9] ibid. p. 102.
[10] Hermas, Vision II, 1-4, cité in Les âges de la vie spirituelle, op. cit., p. 206.
[11] Saint Syméon, Discours sur les Ecritures, P. G. 120, 385.
[12] cité in Les âges de la vie spirituelle, op. cit., p. 207.
[13] cité in Les âges de la vie spirituelle, op. cit., p. 207.
[14] x. Les âges de la vie spirituelle, op. cit., p. 207.
[15] cité in Les âges de la vie spirituelle, op. cit., p. 206.
[16] P.G. 27, 45.
[17] Augustin, Confes.II, 2.
[18] Strom., I, I.
[19] Origène, P. G., 13, 1734 ; voir aussi saint Jean Chrysostome, In Gen. Serm., 6, 2 ; Saint Grégoire de Nazianze, Oratio, 45, 16.
[20] In Eccles., 3, 13.
[21] Cassien, Conférence XIV, x, p. 195.
[22] Os 10, 12 selon LXX.
[23] Augustin de Dacie đã tóm tắt cách tuyệt vời 4 nghĩa Kinh Thánh trong tư tưởng Thomas như sau : “La lettre enseigne ce qui eut lieu, l’allégorie ce que tu as à croire, le sens moral (tropologique) ce que tu as à faire, et le sens anagogique ce vers quoi il te faut tendre”. Dictionnaire international des termes littéraires, art. Anagogie. Cũng theo Thomas, nghĩa văn tự (hay lịch sử) là nền tảng của nghĩa thiêng liêng (spirituel), được phân thành ba : allégorique – moral – anagogique.
[24] x. Dictionnaire de la vie spirituelle, Cerf, Paris, 1987, p. 798.
[25] cité in La Bible, Parole adressée, op. cit., p. 113-114.
[26] La Bilble, Parole adressée, op. cit., p. 103 : Un point où on le voit, c’est précisément dans le fait que la lectio n’est pas purement personnelle car, même lorsque je sui seul dans ma cellule face à ma Bible, je m’inscris dans une perspective beaucoup plus large qui est celle de l’Eglise et du rythme de sa vie et de sa célébration, si bien qu’à la place d’une lecture continue de la Genèse jusqu’à l’Apocalypse, on fait souvent une lecture orientée par le temps liturgique en cours, en reprenant tel livre ou tel passage biblique approprié”.
[27] Cassien, Conférences II, Sc 54, Paris, 1958, pp. 92-93.
[28] Lettres sur la vie contemplative II, éd. E. Colledge- J. Walsh, trad. par un chartreux, Paris, Ed. du Cerf, 1970. SC 163, p. 83-85.
[29] Strom., I, I. cité in Les âges de la vie spirituelle, op. cit., p. 207.
[30] Grégoire le Grand, Hom. VII, liv. I, PL 76, n. 8, 43 sqq.
[31] Augustin, De doctrina christiana, liv. I, chap. 39-43, PL 34, 34-36.
[32] x. Dei Verbum, III, 13
[33] Hồng Y Carlo Maria Martini, mới đây trong bài “La place centrale de la Parole de Dieu dans la vie de l’Eglise”, viết : “La Bible ne doit pas pas être considérée exclusivement sous l’angle de son contenu et de ses affirmations, comme un texte qui dirait “quelque chose” à quelqu’un. Car elle nous met en présence de Quelqu’un qui nous parle et essaie de nous entrainer dans un dialogue de foi et d’espérance, de repentance, d’intercession, d’offrande de soi…Telle fut la lectio divina traditionnelle pendant le premier millénaire chrétien. Et c’est ainsi qu’elle affleure, comme méthode privilégiée, dans les homélies des Pères de l’Eglise (je pense aux explications bibliques de saint Ambroise à Milan ou de saint Augustin à Hippone) : la lecture est ordonnée à la rencontre avec l’Auteur de la Parole, et cette lecture est en mesure de faconner et d’orienter l’existence humaine.” Thực ra, Đức Gioan-Phaolô II, trong Tông Thư “Khởi đầu ngàn năm mới” (39) cũng đã viết : “Lời Chúa phải trở nên một sự gặp gỡ ban sự sống, theo truyền thống xa xưa và luôn vững chắc về việc đọc Sách Thánh (lectio divina), cho phép rút từ bản văn Kinh Thánh Lời Hằng Sống, là lời chất vấn, hướng dẫn và hình thành cuộc sống chúng ta”.
[34] Paul Evdokimov, Les âges de la vie spirituelle, Des Pères du désert à nos jours, Desclée de Brouwer, Paris, 1964, p. 204-209.
Nguồn: http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/Giaohoi/ThuongHuan/ThuongHuan2005/Bai7.htm

Ai Có Thẩm Quyền Giải Thích Kho Tàng Đức Tin?

1. Toàn thể Hội Thánh
Kho tàng đức tin chứa đựng trong Kinh Thánh và Thánh Truyền được giao phó cho toàn thể Hội Thánh (xc. SGLHT, 84).
2. Huấn Quyền Hội Thánh
Nhiệm vụ giải nghĩa kho tàng mạc khải một cách chân chính được uỷ thác cho Huấn Quyền sống động của Hội Thánh. Hội Thánh thi hành quyền đó nhân danh Chúa Giêsu Kitô.
3. Huấn Quyền phục vụ Lời Chúa
Huấn Quyền của Hội Thánh không thể vượt lên trên Lời Chúa mà phải phục vụ Lời Chúa. Với sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, Hội Thánh lắng nghe cách thành tâm, trung thành gìn giữ và trình bày Lời Chúa.
(xc. SGLHT, 84-87).

Kinh Thánh Có Tương Quan Gì Với Thánh Truyền Không?

1. Tương quan mật thiết
Thánh Kinh và Thánh Truyền liên quan mật thiết với nhau, vì cùng:
1.1. Một nguồn mạch
Thánh Truyền và Thánh Kinh liên kết và giao lưu mật thiết với nhau, vì cả hai phát xuất từ một nguồn mạch duy nhất là Thiên Chúa, có thể nói là cả hai kết hợp nên một toàn bộ và hướng về cùng một mục đích" ( DV 9). Cả hai đều làm cho mầu nhiệm Ðức Ki-tô được hiện diện và sinh hoa trái trong Hội Thánh, chính Người đã hứa ở lại với môn đệ "mọi ngày cho đến tận thế " (Mt 28, 20) (SLGHT, 80); nhưng:
1.2. Hai cách lưu truyền
1.2.1. Thánh Kinh
"Thánh Kinh là Lời Thiên Chúa được ghi chép lại dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần" (SGLHT, 81).
1.2.2. Thánh Truyền
"Thánh Truyền chứa đựng Lời Thiên Chúa mà Chúa Ki-tô và Chúa Thánh Thần đã ủy thác cho các tông đồ, và lưu truyền toàn vẹn cho những người kế nhiệm các ngài, để nhờ Thánh Thần chân lý soi sáng, họ trung thành gìn giữ, trình bày và phổ biến qua lời rao giảng" (SGLHT, 81).
2. Đón nhận Thánh Kinh và Thánh Truyền như nhau
"Do đó, Hội Thánh, được ủy thác nhiệm vụ lưu truyền và giải thích Mặc Khải, "không chỉ nhờ Thánh Kinh mà biết cách xác thực tất cả những điều mặc khải, chính vì thế, cả Thánh Kinh lẫn Thánh Truyền đều phải được đón nhận và tôn kính bằng một tâm tình yêu mến và kính trọng như nhau"( DV 9)." (SGLHT, 82).

Kinh Thánh Được Lưu Truyền Như Thế Nào?

1. Lời rao giảng của các Tông Đồ
Lời Thiên Chúa được lưu truyền cho Giáo Hội theo mệnh lệnh của Chúa theo hai cách:
1.1. Truyền khẩu
Thời Giáo Hội sơ khai, những lời Chúa dạy và những việc Chúa làm được truyền miệng trong các cộng đoàn. "Bằng lời rao giảng, bằng gương mẫu và các định chế, các tông đồ truyền lại những điều đã học được từ chính miệng Ðức Ki-tô khi sống chung với Người và thấy Người xử sự hoặc những điều các ngài đã được Thánh Thần gợi hứng" (SGLHT, 76).
1.2. Chữ viết
Các Tông Đồ, thế hệ đầu tiên, cứ lần lượt ra đi. Một số người mới nghĩ ra cách nếu không ghi chép lại những lời và những việc Chúa đã nói và đã làm thì sẽ bị thất truyền, nên đã cất công sưu tầm, ghi chép lại thành những sách mà ta gọi là những sách thánh Tân Ước.
2. Mạc Khải được lưu truyền qua những người kế vị các Tông Đồ
Dưới sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần, Hội Thánh trung thành gìn giữ và lưu truyền nguyên vẹn kho tàng mạc khải cho hậu thế. "Ðể Tin Mừng luôn luôn được gìn giữ nguyên vẹn và sống động trong Hội Thánh, các tông đồ đã đặt các Giám Mục làm người kế nhiệm, và trao lại cho họ "trách nhiệm giáo huấn của các ngài" (DV 7). Vì vậy, "những lời giảng dạy của các tông đồ được đặc biệt ghi lại trong các sách linh hứng, phải được bảo tồn và liên tục lưu truyền cho đến tận thế " (DV 8) (SGLHT, 77).

Kinh Thánh Là Gì ?

1. Bộ sưu tập
Kinh Thánh là một bộ sưu tập gồm nhiều bản văn. Bộ sưu tập này được gọi là Sách Thánh. Sách Thánh gồm Cựu Ước và Tân Ước. Cựu Ước là di sản chung của Do Thái Giáo và Kitô Giáo trên khắp hoàn cầu. Còn Tân Ước cũng là Sách Thánh nhưng là di sản của các tín hữu Kitô (Công Giáo, Anh Giáo, Tin Lành và Chính Thông Giáo).
2. Cựu Ước
Cựu Ước gồm 46 cuốn sách: Cựu Ước : Sáng Thế, Xuất Hành, Lê Vi, Dân Số, Ðệ Nhị Luật, Giô-su-ê, Thủ Lãnh, Rút, 1và2 Sa-mu-en, 1và2 Các Vua, 1và 2 Sử Ký, Ê-dơ-ra và Nơ-khe-mi-a, Tô-bi-a, Giu-đi-tha, Ét-te, 1và2 Ma-ca-bê, Gióp, Thánh Vịnh, Châm Ngôn, Giảng Viên, Diễm Ca, Khôn Ngoan, Huấn Ca, I-sa-i-a, Giê-rê-mi-a, Ai-ca, Ba-rúc, Ê-dê-ki-en, Ða-ni-en, Hô-sê, Gio-en, A-mốt, Ô-va-đi-a, Giô-na, Mi-kha, Na-khum, Kha-ba-cúc, Xô-phô-ni-a, Khác-gai, Da-ca-ri-a, Ma-la-khi.
3. Tân Ước
Tân Ước gồm 27 cuốn: Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu, Thánh Mác-cô, Thánh Lu-ca, Thánh Gio-an, Công vụ Tông đồ, Thư Rô-ma, Thư 1 và 2 Cô-rin-tô, Thư Ga-lát, Thư Ê-phê-sô, Thư Phi-líp-phê, Thư Cô-lô-xê, Thư 1và2 Thê-xa-lô-ni-ca, Thư 1và 2 Ti-mô-thê, Thư gởi cho Ti-tô, Thư gởi Phi-lê-mon, Thư Do-thái, Thư Thánh Gia-cô-bê, Thư 1và2 Thánh Phê-rô, Thư 1, 2 và 3 Thánh Gio-an, Thư Thánh Giu-đa, Khải Huyền.

Kinh Thánh - Kho Tàng Tri Thức

1. Lịch sử niềm tin
Kinh Thánh ghi lại những kinh nghiệm sống đức tin của dân tộc được tuyển chọn vào Thiên Chúa duy nhất. Đức tin đó được thể nghiệm qua nhiều giai đoạn khác nhau: lúc thịnh lúc suy. Đức tin đó được thử thách qua dòng lịch sử của một dân tộc. Dân Israel đã sống kinh nghiệm đức tin với chiều dài bằng những cam go thử thách. Kinh Thánh chứa đựng một kho tàng kinh nghiệm sống của cả một dân tộc tin tưởng vào một Thiên Chúa luôn luôn trung tín và đầy lòng yêu thương.
2. Kho tàng tri thức nhân văn
Dân tộc Israel đã trải qua một lịch sử hình thành đầy biến động. Dân tộc thánh đã rút ra những bài học về cách sống với Thiên Chúa, với thiên nhiên, với lân bang và với chính mình. Từ thực tế cuộc sống, dân Israel đã đúc rút lại thành tục ngữ ca dao để dạy dỗ con cái biết sống hài hoà với các tương quan khác. Các sách giáo huấn như Thánh Vịnh, Châm Ngôn, Huấn Ca... chứa đựng tri thức nhân văn rất thâm thuý. Đó là những bài học dạy làm người, làm người quân tử: trên biết có Trời, dưới biết có người.
3. Tri thức mang ơn cứu độ
Trong Kinh Thánh có thể chứa đựng nhiều loại tri thức khác. Kinh Thánh thách thức nhân loại phải suy tư và truy tầm về nguồn cội của mình. Kinh Thánh cũng giúp con người khám phá ra các khoa học như khoa khảo cổ học...
Kinh Thánh không nhắm truyền đạt tri thức nhân loại, để nhờ đó, con người hiểu sâu biết rộng. Kinh Thánh dạy cho con người con đường về Nước Trời, hay nói cách khác Kinh Thánh dạy con người biết tìm ơn cứu độ cho chính mình: "Sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giêsu Kitô" (Ga 17,3).

Kiến Thức Kinh Thánh

Kinh Thánh - Thư Viện Sống
Kinh Thánh - Kho Tàng Tri Thức
Kinh Thánh Là Gì ?
Lưu Truyền Mạc Khải
Tương Quan Giữa Thánh Kinh Và Thánh Truyền
Giải Nghĩa Kho Tàng Đức Tin

Kinh Thánh - Thư Viện Sống

1. Lời Thiên Chúa
Kinh Thánh chứa đựng kho tàng mạc khải của Thiên Chúa. Kinh Thánh là Lời của Thiên Chúa. Lời đó bất di bất dịch.
2. Lời sáng tạo
Lời Thiên Chúa là Lời đầy quyền lực sáng tạo: "Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành,và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành" (Ga 1,3). Nhờ Lời đó, tất cả mọi sự trên trời dưới đất mới được tạo thành, và cũng nhờ Lời đó mà muôn vật được tồn tại.
3. Lời ban sự sống
Lời Thiên Chúa là lời ban sự sống. Ngay từ chương đầu sách Sáng Thế, chúng ta đã thấy là Thiên Chúa đã dùng Lời Ngài mà tác thành vạn vật. Thiên Chúa phán một lời, tức là lời đó thành hành động. Nhờ Lời đó sự sống xuất hiện. Lời Thiên Chúa là chính Thiên Chúa, mà ở nơi Thiên Chúa là sự sống, sự sống đó được thông ban cho con người nhờ Lời Thiên Chúa (xc. Ga 1,4).
4. Lời cứu độ
Lời Thiên Chúa có sức mạnh nơi chính Lời của mình. Tự Lời Thiên Chúa có sức mạnh cứu độ con người. Ai nghe Lời Thiên Chúa một cách say sưa và đem ra thực hành, thì Lời đó đảm bảo cho người ấy ơn cứu độ. Toàn bộ Kinh Thánh Tân Ước minh chứng cho chúng ta điều đó.
5. Lời để sống
Kinh Thánh không như một cuốn tiểu thuyết, chỉ cần đọc thoáng qua và chỉ cần đọc một lần là nắm được nội dung cốt truyện. Kinh Thánh là kinh nghiệm sống đức tin của một dân tộc, dân tộc được tuyển chọn; không chỉ có thế thôi, Kinh Thánh còn là một lịch sử giao ước tình yêu Thiên Chúa biểu lộ cho con người trải qua nhiều thời đại và nhiều cách thức. Do đó, Kinh Thánh là Lời để đọc, để suy, để chiêm, để nghiệm và để sống. Kinh Thánh không bao giờ lỗi thời hay hết mốt. Kinh Thánh luôn "hot", "new".

Bài 5: Thiên Chúa Đến Gặp Con Người

1. Thiên Chúa bày tỏ kế hoạch yêu thương
"Thiên Chúa nhân lành và khôn ngoan đã muốn mặc khải chính mình và tỏ cho mọi người biết mầu nhiệm thánh ý Người. Nhờ đó, loài người có thể đến cùng Chúa Cha, nhờ Chúa Kitô, Ngôi Lời nhập thể trong Chúa Thánh Thần, và được thông phần bản tính của Thiên Chúa" (DV 2).
Thiên Chúa đích thân tỏ cho con người thì con người mới biết Người là ai, đặc biệt hơn nữa là Ngài đã bày tỏ ý định yêu thương cho con người qua nhiều giai đoạn một cách tiệm tiến. Giống như đứa trẻ tiếp cận với nguồn tri thức thì phải học lần lượt từ mẫu giáo, lớp 1 rồi lớp 2... Cứ thế từ thấp lên cao. Thiên Chúa cũng sử dụng khoa sư phạm tiệm tiến để bày tỏ cho con người biết mầu nhiệm thánh ý Ngài.
2. Các giai đoạn mạc khải
Thuở đầu, Thiên Chúa tỏ mình ra cho tổ tông chúng ta, rồi Ngài thiết lập giao ước với ông Noe. Sau đó, Thiên Chúa tuyển chọn ông Ápraham, nhờ ông, mọi dân tộc sẽ được chúc phúc. Qua dòng dõi được tuyển chọn, Thiên Chúa huấn luyện dân được tuyển chọn là Israel để chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế.
3. Đức Giêsu Kitô là sự viên mãn của toàn bộ mạc khải
"Thuở xưa nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã dùng các ngôn sứ mà phán dạy cha ông ta; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy ta qua Con của Người " (Dt 1, 1-2). Ðức Ki-tô, Con Thiên Chúa làm người, là Lời duy nhứt, hoàn hảo và dứt khoát của Chúa Cha. Nơi Người, Thiên Chúa phán dạy mọi sự, và sẽ không có lời nào khác ngoài Lời đó" (SGLHT, 65).
4. Không còn mạc khải chung nào nữa
Mạc khải của Thiên Chúa đã được hoàn tất nơi Đức Giêsu Kitô, sẽ không còn mạc khải nào nữa. Tuy nhiên, trong lịch sử ta vẫn nghe nói đến những "mạc khải tư". Mạc khải tư là mạc khải được ban cho một cá nhân nào đó và được Giáo Hội công nhận. Loại mạc khải này không thuộc kho tàng đức tin. Nó không "cải thiện hoặc bổ sung Mạc Khải tối hậu của Đức Kitô, mà để giúp người ta sống Mạc Khải cách trọn vẹn hơn vào một thời điểm lịch sử" (SGLHT, 67).

Bài 4: Ngôn Ngữ Nói Về Thiên Chúa

1. Con người giới hạn
Phải nói một điều ngay từ đầu rằng con người là một thụ tạo có giới hạn. Con người dù có trí khôn trổi vượt trên các loài thụ tạo khác, thì cũng không thể hiểu thấu hết những sự trên đời, phương chi là Đấng Tạo Hoá. Con người chỉ có thể hiểu thế giới này ít hoặc nhiều chứ không ai hiểu được tất cả.
2. Có thể nói về Thiên Chúa
Vậy thì con người có thể nói về Thiên Chúa không? Dù bị giới hạn bởi không gian và thời gian, con người dựa vào vẻ đẹp thiên hình vạn trạng của các loại thụ tạo để nói về Thiên Chúa. Thiên Chúa vượt xa những gì con người có thể tượng tượng, nên con người phải không ngừng luyện lọc ngôn ngữ. Chúng ta có thể nói về Thiên Chúa một cách loại suy, ví dụ: chúng ta loại suy từ tình thương của người cha trong gia đình đối với con cái mình để nói về tình Thiên Chúa như người cha đối với con cái loài người; tuy nhiên, tình yêu thương của Thiên Chúa còn vượt xa hơn, hơn thế nữa! "Chúng ta không thể hiểu được Thiên Chúa như thế nào, mà chỉ hiểu được Người không như thế nào, và những hữu thể khác có vị trí nào trong tương quan với Thiên Chúa (thánh Tôma Aquinô).
3. Chân lý bất biến
Thiên Chúa là Chân Lý tuyệt đối và bất biến. Ngài trước sau như một, không hề thay đổi, không hề lừa dối ai và cũng không bị ai lừa dối. Chân Lý đó được chứa đựng trong kho tàng mạc khải của Thiên Chúa, tức là Thánh Kinh và Thánh Truyền.
4. Cách trình bày Chân Lý phải phù hợp
Chân Lý là một, trước sau vẫn thế. Còn cách trình bày thì có thay đổi theo dòng thời gian. Chân Lý Đức Tin mà các Tông Đồ đón nhận từ Đức Kitô như thế nào thì cũng được truyền lại cho các thế hệ sau và cho đến ngày nay cũng như vậy. Thời các Tông Đồ đi rao giảng không có internet, không có loa đài; còn bây giờ các môn đệ Đức Kitô đi rao giảng có thể sử dụng các phương tiện truyền thông để rao giảng. Con người ngày nay sẽ có suy nghĩ, não trạng khác với con người thời xưa; do đó khi rao giảng cho người ngày nay phải sử dụng những ngôn từ hay những biểu tượng phù hợp với tâm thức của người thời nay thì họ mới lãnh hội được sứ điệp cứu độ.

Bài 3: Những Con Đường Giúp Nhận Biết Thiên Chúa

1. Thế giới thụ tạo
"Căn cứ vào vận hành và biến hóa của thế giới, tính cách vô thường, trật tự và vẻ đẹp của nó, người ta có thể nhận biết Thiên Chúa như là nguyên thủy và cùng đích của vũ trụ" (SGLHT, 32).
2. Con người
"Với tâm hồn cởi mở đón nhận sự thật và vẻ đẹp, với lương tri, tự do và tiếng nói của lương tâm, với khát vọng vươn tới vô tận và hạnh phúc, con người tự hỏi về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Qua những đặc tính trên , con người nhận ra những dấu chỉ cho thấy mình có linh hồn. "Vì mầm sống vĩnh cửu mà con người mang nơi mình, không thể giản lược chỉ duy vào vật chất" (GS 18, 1 ; x 14, 2), nên linh hồn con người chỉ có thể xuất phát từ Thiên Chúa" (SGLHT, 33).
3. Những con đường không chắc chắn
"Trong những hoàn cảnh cụ thể của mình, con người rất khó nhận biết Thiên Chúa nếu chỉ dựa vào ánh sáng của lý trí :
Lý trí con người nhờ sức lực và ánh sáng tự nhiên của mình, có thể nhận biết cách xác thật và chắc chắn về một Thiên Chúa hữu ngã, Ðấng bảo vệ và điều khiển thế giới bằng sự quan phòng, cũng như về luật tự nhiên mà Ðấng Sáng tạo đã đặt trong tâm hồn chúng ta. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều trở ngại ngăn cản lý trí vận dụng hữu hiệu năng lực tự nhiên của nó. Vì những chân lý liên quan đến Thiên Chúa và loài người vượt hẳn lãnh vực khả giác, lại đòi hỏi con người phải xả thân và quên mình khi muốn hành động và sống theo chân lý đó. Ðể nắm bắt những chân lý như thế, tinh thần con người phải chịu nhiều khó khăn do giác quan và trí tưởng tượng, cũng như những ham muốn xấu xa do nguyên tội gây nên. Vì thế, trong những lãnh vực đó, những điều mà con người không muốn là có thật, thì họ dễ dàng tự thuyết phục mình rằng chúng chỉ là điều dối trá hay mơ hồ ( Pi-ô XII, enc. Humani Generis: DS 3875)." (SGLHT, 37).
4. Mạc Khải - Con đường nhận biết Thiên Chúa chắc chắn nhất
Chỉ có một con đường nhận biết Thiên Chúa chắc chắn nhất, khi dựa vào đó con người không sợ sai lầm, đó là con đường do chính Thiên Chúa vạch ra - Mạc Khải.
"Vì thế, con người cần được mặc khải của Thiên Chúa soi dẫn, không những trong những gì vượt quá trí khôn, mà còn trong "những chân lý tôn giáo và luân lý tự nó vốn không vượt quá khả năng lý trí để con người trong hoàn cảnh hiện tại có thể biết được một cách dễ dàng, chắc chắn mà không lẫn lộn sai lầm" ( DS 3876 ; x. Vatican I DS 3005 ; DV 6 ; Th. Tô-ma Aquinô, Tổng luận thần học 1, 1, 1. ) (SGLHT, 38).

Giáo Lý Cho Giới Trẻ

Bài 1: Khát Vọng Sống Vĩnh Hằng
Bài 2: Con Người Khao Khát Thiên Chúa
Bài 3: Những Con Đường Nhận Biết Thiên Chúa
Bài 4: Ngôn Ngữ Nói Về Thiên Chúa
Bài 5: Thiên Chúa Đến Gặp Con Người
Bài 6: Lưu Truyền Mạc Khải
Bài 7: Tương Quan Giữa Thánh Kinh Và Thánh Truyền
Bài 8: Giải Nghĩa Kho Tàng Đức Tin


Bài 2: Con Người Khao Khát Thiên Chúa

1. Tự đáy lòng, con người khát khao Thiên Chúa
"Tận đáy lòng, con người khao khát Thiên Chúa vì con người được tạo dựng do Thiên Chúa và cho Thiên Chúa. Thiên Chúa không ngừng lôi kéo con người đến với mình, và chỉ nơi Thiên Chúa, con người mới tìm gặp chân lý và hạnh phúc mà họ không ngừng tìm kiếm" (SGLHT, 27).
2. Những biểu lộ tìm kiếm Thiên Chúa nơi con người
"Trong lịch sử loài người và cho tới ngày nay, loài người đã diễn đạt việc tìm kiếm Thiên Chúa bằng nhiều cách qua các tín ngưỡng và các thái độ tôn giáo (cầu khẩn, cúng tế, tịnh niệm, phụng tự, v. v... ). Mặc dù có khi còn mơ hồ bất minh, những hình thức này quá phổ biến, đến nổi có thể gọi con người là một hữu thể tôn giáo :
Từ một người, Thiên Chúa đã tạo thành toàn thể nhân loại, để họ ở trên khắp mặt đất. Người đã vạch ra những thời kỳ nhất định cho các dân tộc và những ranh giới cho nơi ở của họ. Như vậy là để họ tìm kiếm Thiên Chúa; may ra họ dò dẫm mà tìm thấy Người, tuy rằng thực sự Người không ở xa mỗi người chúng ta. Thật vậy, chính ở nơi Người mà chúng ta sống, chúng ta cử động và chúng ta có (Cv 17, 26-28)." (SGLHT, 28).
3. Thiên Chúa muốn con người được hạnh phúc
"'Hạnh phúc thay những tâm hồn tìm kiếm Thiên Chúa' (Tv 105, 3). Cho dù con người có thể quên lãng hay chối từ Thiên Chúa, Thiên Chúa vẫn không ngừng kêu gọi mỗi người tìm kiếm Người để được sống và được hạnh phúc. Nhưng sự tìm kiếm này đòi hỏi con người vận dụng tất cả trí tuệ, ý chí chính trực, "một lòng ngay thẳng", và phải có cả chứng từ của người khác hướng dẫn họ kiếm tìm Thiên Chúa." (SGLHT, 30).

Bài 1: Khát Vọng Sống Vĩnh Hằng


1. Khát vọng sống
Con người dù sống trong thời đại, theo tôn giáo hay thuộc một nền văn hoá nào thì cũng đều ước mong được sống, được sống thoải mái và được sống vĩnh hằng. Cái khát vọng sống được ghi khắc vào tâm khảm của con người. Trong các dấu tích cũng như trong nhận thức của con người trải qua các thời đại, con người luôn mong được trường sinh bất tử.

2. Khát vọng sống không được đáp ứng
Dù giàu sang hay thấp hèn, dù nam hay nữ thì ai rồi cũng phải chết. Chết là điểm kết thúc của một đời người, và cũng là lúc ấn định số phận của con người. Biết là sẽ chết, nhưng ai cũng muốn được sống mãi để hưởng phúc. Tại sao con người có khát vọng sống bất diệt lại phải chết? Mỗi nền văn hoá, mỗi tôn giáo dạy cho chúng ta cái nguyên nhân làm cho con người phải chết. Ở đây, chúng tôi chỉ giới hạn nơi niềm tin Kitô giáo. Thuở đầu, con người được sống trong hạnh phúc, nghĩa là không phải nếm cái chết và đau khổ. Thế rồi tình trạng đó bị phá huỷ khi Tổ Tông loài người phạm tội (xc. St 3,1tt). Cái tội đó được hiểu nôm nay là sự từ khước vâng phục Thiên Chúa, Đấng đã dựng nên mọi sự trong đó có con người. Cái tội đó để lại hậu quả thảm khốc cho con người là phải đau khổ và phải chết. Hậu quả đó còn ảnh hưởng lên hậu thế cho đến ngày hôm nay.

3. Hy vọng được sống
Sau khi Tổ Tông phạm tội, ngay lập tức Thiên Chúa đã hứa ban ơn cứu độ cho họ. Tại sao Thiên Chúa lại làm thế? Chỉ vì Thiên Chúa là Tình Yêu. Ngài không muốn con người phải chết đời đời, nên đã hứa sẽ ra tay giải thoát họ khỏi đau khổ, tội lỗi và sự chết đời đời. Lời hứa cứu độ đó được thực hiện qua nhiều giai đoạn và nhiều cách thức trải qua thời kỳ lâu dài gọi là Cựu Ước, và cuối cùng được thực hiện nơi Đức Kitô – Con Thiên Chúa làm người. Đức Kitô làm người mang lại hy vọng cứu độ cho toàn thể nhân loại. Trên trần gian này, con người chỉ tìm được sự sống nơi Ngài (xc. Cv 4,12). Đấng ấy hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một, Đấng Cứu Thế của con người (xc. Dt 13,8).
“Thiên Chúa là Ðấng Toàn Thiện và Hạnh Phúc khôn lường. Theo ý định nhân hậu, Người đã tự ý tạo dựng con người, để họ được thông phần sự sống vĩnh phúc. Do đó, Người đã đến với con người. Thiên Chúa kêu gọi con người, giúp họ tìm kiếm, nhận biết và đem hết tâm lực yêu mến Người. Thiên Chúa triệu tập mọi người đã bị tội lỗi phân tán để hợp nhất thành gia đình của Người là Hội Thánh. Ðể thực hiện điều này, khi tới thời viên mãn, Người đã cử Chúa Con đến làm Ðấng chuộc tội và cứu độ. Trong và nhờ Người Con ấy, Thiên Chúa kêu gọi loài người trở nên nghĩa tử trong Chúa Thánh Thần, và do đó, được thừa kế đời sống hạnh phúc của Người.” (SGLHT, 1).
4. Khoả lấp khát vọng sống
Ai có thể khoả lấp được khát vọng sống vĩnh cửu nơi sâu thẳm lòng người? Ai có thể mang lại hạnh phúc trường tồn cho con người? Ai có thể làm cho con người trở nên bất tử? Câu trả lời phụ thuộc vào lòng tin của mình đối với Đấng là Chúa Sự Sống. Chỉ có Đấng là Cội Nguồn của mọi sự sống mới có thể mang lại cho con người sự sống. Chỉ có Đấng khơi nguồn sự sống mới làm cho con người nên bất tử. Chỉ có Đấng toàn năng tạo nên sự sống mới mang lại hạnh phúc thật cho con người.
Biên soạn: Fx. Trần Kim Ngọc, OP.

Kỹ Năng Sinh Hoạt

Các Dạng Mật Thư Cơ Bản



BẢNG CHỮ CÁI QUỐC TẾ:
A B C D E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W Y Z
I. Quốc ngữ điện tín:- Cách đặt dấu mũ: Thay thế trực tiếp.- Cách đặt dấu thanh: Đặt sau mỗi từ.
Ví dụ: Công cha như núi Thái Sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Sẽ được viết là:Coong cha nhuw nuis Thais SownNghiax mej nhuw nuowcs trong nguoonf chayr ra.
II. Đọc ngược:Có 2 cách đọc:1. Đọc ngược cả văn bản:Ví dụ với câu: Kỹ năng sinh hoạt.Có thể viết là: tạoh hnis gnăn ỹk(jtaoh hnis gnwan xyk) 2. Đọc ngược từng từ:ỹk gnăn hnis tạoh (xyk gnwan hnis jtaoh)III. Đọc lái:
Trong lúc trò chuyện với nhau, thỉnh thoảng chúng ta vẫn thường hay nói lái để tạo ra những tình huống vui nhộn. Từ đó, ta tạo ra những mật thư bằng cách này.Ví dụ ta nghe người nào đó nói:”Ngầu lôi tăng kể mẵn cuối khíu chọ”. Thoạt đầu, ta cứ tưởng anh ta là người mới học tiếng Hoa. Nhưng khi nghe giải thích rõ mới hiểu, thì ra anh ta muốn nói: Ngồi lâu tê cẳng muỗi cắn khó chịu.IV. Đánh vần:
Ở cách này, yêu cầu người dịch phải biết cách đánh vần giống như các em học sinh tiểu học. Nếu đọc lớn lên trong lúc dịch thì sẽ dễ hình dung hơn.
V. Bỏ đầu bỏ đuôi:
Ta chỉ cần bỏ chữ đầu và chữ cuối câu. Phần còn lại chính là nội dung bản tin.
VI. Số thay chữ:
Đây là dạng mật thư rất đơn giản. Ta chỉ cần viết ra 26 chữ cái, rồi sau đó, viết ngay dưới vị trí A là số 1, B là số 2… và Z là số 26. Sau đó dịch bình thường bằng cách: Cứ thấy số nào thì điền chữ tương ứng vào bên dưới
Như vậy, người đố mật thư có thể thay đổi khóa. Thay vì A=1, thì ta có thể cho A=2, 3… hay một số bất kỳ nào khác, hoặc ta không dùng A mà có thể dùng một chữ nào đó = một số nào đó.
VII. Chữ thay chữ:
Khác với loại mật thư “Số thay chữ” ở trên, loạmật thư “Chữ thay chữ” sẽ thể hiện cho chúng ta thấy một bản tin toàn là những chữ khó hiểu. Từ đó, ta phải giải khóa để hiểu những chữ đó muốn nói gì. Ở đây, ta thử với loại chìa khóa A=b. Trước hết ta phải nhập bảng dưới đây:
Như vậy, người đố mật thư có thể thay đổi khóa. Thay vì A=b, thì ta có thể cho A= một chữ bất kỳ nào khác, hoặc ta không dùng A mà có thể dùng một chữ nào đó cũng được.
VIII. Mưa rơi:
Khi nhìn thấy loại mật thư này, ta chỉ cần đi theo mũi tên của khóa. Ở đây, chữ đầu tiên là chữ C, chữ thứ nhì theo hướng đi của khóa là chữ O. Theo đó, ta sẽ dịch được hết bản tin.
IX. Chuồng bò:
Đây là một dạng mật thư rất quen thuộc (còn gọi là mật thư góc vuông – góc nhọn). TRước hết, chúng ta phải nắm rõ 2 khung cơ bản dưới đây. Cứ mỗi ô sẽ chứa 2 chữ:


Với chữ nằm ở phía bên nào thì ta chấm 1 chấm ở phía bên đó.
Riêng ở khung chéo thứ 2, cách thể hiện cũng chưa có sự thống nhất ở nhiều tài liệu khác nhau. Do đó, chúng tôi liên kê ra hết để cho người soạn mật thư tuỳ ý lựa chọn để lập chìa khóa chom mình. Có tất cả 6 cách để thể hiện, ta muốn làm theo kiểu nào thì đặt khóa theo kiểu nấy
Đây là dạng mật thư mà ta thường thấy đăng trên các báo Nhi đồng.
Khi thấy một hình vẽ nào đó, ta phải liên tưởng ngay nó là hình gì? Thí dụ như đó là: hình trái CAM. Nếu thấy bên trên ghi là –C và +N, thì ta cứ thực hiện theo yêu cầu của hình. Tức là CAM – C = AM; AM + N = NAM. Vậy chữ dịch được sẽ là chữ NAM. Cứ thế, ta lần lượt tìm ra ý nghĩa của những hình khác còn lại. Sau đó ráp nối lại sẽ thành một câu có ý nghĩa.Bản mật thư trên sẽ được dịch là: NAM QUỐC SƠN HÀ NAM ĐẾ CƯ.
CÁCH GIẢI MÃ MẬT THƯ
1. Phải hết sức bình tĩnh2. Tự tin nhưng không được chủ quan3. Nghiên cứu khóa giải thật kỹ4. Đặt các giả thiết và lần lượt giải quyết5. Đối với việc giải mật thư trong trò chơi lớn, ta nên sao y bản chính và chia thành nhiều nhóm nhỏ để dịch. Như thế, ta sẽ tận dụng được hết những chất xám trí tuệ ở trong đội. Tránh tình trạng xúm lại, chụm đầu vào tranh dành xem một tờ giấy để rồi kết quả không đi tới đâu, mà dễ làm rách tờ giấy mật thư của chúng ta nữa.6. Cuối cùng, nếu dịch xong, ta viết lại bản bạch văn cho thật rõ ràng, sạch sẽ và đầy đủ ý nghĩa.
Nguồn: http://www.giadinhtruyentin.com/k-n-ng-sinh-ho-t/cac-d-ng-m-t-th-c-b-n

Một Số Trò Chơi Vận Động Khác

Cướp cờ
Chỗ chơi: Sân rộng hoặc đám đất phẳng rộng một bề 30 thước, một bề 20 thước.
Số người chơi: 20 sắp lênVật liệu: 8 cây cờ
Xếp đặt: Chia Đoàn làm 02 phe, mỗi phe đứng một bên. Sau lưng mỗi phe có 4 cây cờ , cắm theo hàng ngang đều nhau.
Cách chơi: Các bạn phải chạy qua lọt hàng rào quân địch, vào chổ cắm cờ để lấy cờ. Vào chỗ cắm cờ rồi, không ai có quyền bắt họ nữa. Vào được rồi lấy một cây cờ đem về, đi ung dung không còn lo như khi đi qua. Có thể lấy một cây cờ hoặc giải thoát cho tất cả tù binh thuộc phe mình. Nếu trong lúc chạy qua bị quân địch sờ phải thì ở tù. Phe nào đem về địa phận mình cả 8 cây cờ thì thắng cuộc.
Cua bò
Chỗ chơi: San hoặc phòng rộngSố nguời chơi: 5 trở lên. Tùy chỗ chơi rộng hẹp mà định số người chơi.Xếp đặt: Nẵm ngửa, mặt và bụng lên trời. Chống với 2 chân và 2 tay, người này nằm nối đuôi người kia.Cách chơi: Nghe còi lịnh, bò ngang với 2 chân 2 tay, ai đến sau cùng phải cõng người đầu tiên một vòng. nếu chỗ chơi hẹp, người chơi đông thì chơi loại dần.
Người cụt đội nón
Chỗ chơi: Sân hoặc phòng rộng
Số người chơi: 10-40.Vật liệu: Mỗi đội 01 cái nón, 1 cái ghế.
Cách chơi: Nghe tiếng còi, bắt đầu chơi, mấy bạn đứng đầu mỗi đội chạy lên dụng miệng ngậm vào vành nón, để lật ngửa ra, tìm cách đội lên đầu đi về rồi trở lại để nón ên nghế, lật úp lại. Không được dùng tay để làm các công việc trên. Xong rồi,chạy về đánh vào tay người thứ 2 để bạn này lên thay mình. đội nào làm xong trước thắng cuộc.

Gánh nước thi
Chỗ chơi: Sân hoặc phòng rộng
Số người chơi: 3-40 ngườiVật liệu: Mỗi đội 2 chén nước đầy
Xếp đặt: Các đội đứng thành hàng dọc. Cách mấy bạn đầu độ 10 thước, vạch một đường. Mấy bạn đứng đầu hàng cầm mỗi bạn một chén nước đầy.
Cách chơi: Nghe tiếng còi lệnh, các bạn đứng đầu mỗi hàng chạy lên đường vạch, để chén nước xuống và chạy về đánh vào tay em thứ nhì, đoạn chạy ra hàng sau mà đứng. Người thứ nhì vội chạy lên cầm chén nước đưa cho người thứ 3 tiếp tục chạy lại.Đội nào chạy mau nhất và còn nước nhiều nhất được cuộc.

Mưa rơi
Chỗ chơi : Trong hội trường, trong vòng tròn hoặc trên xe
Cách chơi : Vòng tròn chú ý theo người điều khiển. Người điều khiển đưa tay dưới thắt lưng vòng tròn vỗ tay nhẹ ( mưa nhỏ ). Người điều khiển đưa tay lên cao dần, vỗ tay to dần và nhanh lên dần. Khi người điều khiển đưa tay qua đầu vòng tròn, vỗ tay nhânh và lớn ( mưa lớn )
Chú ý : Người điều khiển có thể đưa tay lên cao hoặc xuống thấp nhiều lần, với tốc độ nhanh chậm khác nhau để tạo âm thanh hay. Để gợi sự chú ý cho vòng tròn, người điều khiển có thể chia vòng tròn thành hai nhóm và thực hiện theo hay tay của người điều khiển.Trò chơi cũng có thể biến dạng kết hợp tiếng reo theo quy ước. Mưa nhỏ là “ rì, rì...” và khi mưa lớn là “ u,u...” liên tưởng có gió lớn.

Ban nhạc hòa tấu
Vòng tròn có thể được chia thành 4 nhóm :
+ Nhóm 1 : Thực hiện tiếng trống “ Thùng thình “
+ Nhóm 2 : Thực hiện tiếng mỏ “ Tóc tóc “
+ Nhóm 3 : Thực hiện tiếng đàn “ Tùng tùng “
+ Nhóm 4 : Thực hiện tiếng chuông “ Keng keng “Quản trò đưa tay về phía nhóm nào thì nhóm đó sẽ reo vang loại nhạc cụ mà mình được phân côngĐể trò chơi thêm hững thú, quản trò có thể điều khiển một lúc hay tay và khi đưa tay lên thì đồng loạt 4 nhạc cụ đều vang lên và ngân dài nhạc cụ của mình, quản trò chỉ tay dưới đất thì tất cả đều phát ra tiếng “ Hùm hùm ...” và trò chơi được tiếp tục.

Nhà báo tìm dũng sỹ
Vòng tròn cử một người là nhà báo và đi ra khởi vòng ( phòng ). Trong phòng cử một người khác là dũng sỹ. Cả vòng tròn ( phòng ) quan sát thật kỹ những đặc điểm của dũng sỹ. Khi hay tin trong vòng ( phòng ) có một dũng sỹ, nhà báo được cử đến phỏng vấn. Nhà báo có thể hỏi trong vòng tròn ( từ 3 đến 10 câu ) tùy theo vòng tròn quy định. Câu hỏi của nhà báo chỉ có thể được là câu hỏi phủ định hay khẳng định. Ví dụ : Dũng sỹ là nam phải không ? Hoặc dũng sỹ có đeo khăn quàng phải không ? Nếu dũng sỹ là nam thì tất cả vòng tròn vỗ tay, nếu dũng sỹ là nữ thì vòng tròn im lặng lăc đầu. mọi thành viên không được nói, ai nói sẽ bị phạt vi phạm luật chơi. Sau khi hỏi đủ câu hỏi đã quy định sẽ chỉ dũng sỹ đang ngồi trong vòng tròn. Nếu chỉ đúng dũng sỹ đi ra ngoài và thay nhà báo, còn chỉ sai sẽ bị phạt hình phạt do tập thể quy định.
Tìm bạn bằng nửa trái tim
Địa điểm : Chơi ở trong phòng- Chuẩn bị : cắt những trái tim bằng giấy màu, khoảng 4 màu ( số lượng bằng ½ số người chơi ) Sau đó dùng kéo cắt hình răng cưa chia trái tim ra làm 2. Chú ý cắt làm sao cho không có đường cắt nào là giống nhau. Một nửa thì ghi chữ Nếu, một nửa ghi chữ Thì.Cách chơi : người điều khiển chia người chơi thành 2 nhóm, sau đó phát cho 1 người một nửa trái tim. Một người viết vào nửa trái tim theo yêu cầu ( nếu hoặc thì )Sau khi mọi người viết xong, quản trò hô : hãy tìm bạn bằng nửa trái tim.Người chơi nhanh chóng tìm được bạn mình bằng cách so nét cắt của hai nửa khớp nhau. Quản trò chọn 10 cặp nhanh nhất, bình luận từng cặp một xem thử Nếu, Thì của cặp nào có duyên và có ý nghĩa nhất. Trao phần thưởng, trò chơi kết thúc.

Đầu voi đuôi chuột
Chỗ chơi : sân hoặc phòngSố người chơi : 10 hoặc 40.vật liệu : Mỗi đội 1 tờ giấy và một bút chì.Xếp đặt : Ngồi vòng tròn. Chơi từng đội nếu quá 10 người.Cách chơi : Quản trò chuyền tay một tờ giấy trắng. Mỗi người phải viết một câu trả lời câu hỏi của quản trò, nhưng không được xem mấy câu trả lời trướcVí dụ : Quản trò hỏi : lựa hai tên. Họ làm gì ? Với gì ? Ở đâu ? Họ thấy gì ? Nghề gì ? Rồi làm gì ? Và kết quả ra sao ?Sâu cùng quản trò đọc các câu trả lời liên tiếp lên để cùng nhau biết câu chuyện.

Đi trên giấy
Cách chơi : các bạn tham gia trò chơi ( không hạn chế số lượng ) được chia làm nhiều đội bằng nhau. Mỗi bạn chuẩn bị hai tờ giấy vừa bằng bàn chân, các đội xếp hàng dọc ngay vạch xuất phát, vạch đích cách vạch xuất phát từ 5 đến 10 mét. Khi có lệnh của quản trò, bạn đứng đầu của mỗi đội sẽ đi đến đích bằng cách : đặt miếng giấy xuống đất, chân bước đạp lên, sau đó đặt tiếp miếng giấy thứ hai xuống và bước chân còn lại lên đồng thời rút miếng giấy phía sau đặt lên trên. Cứ như thế, các bạn tiếp tục đi đến đích. Khi bạn thứ nhất đã đi đến nơi, bạn tiếp theo của mỗi đội lại bắt đầu đi như trên, cho đến người cuối cùng. Đội nào đến đích trước sẽ thắng. Luật chơi : Khi bước đi, một chân các bạn phải đạp lên giấy và chân kia không được chạm đất. Nếu chạm đất sẽ bị trừ một điểm.

Đối đáp
Người chơi được chia thành 2 nhóm, lần lượt đối đáp theo 3 câu sau :Con cò con cõng con cò cáiCon cò cái cõng con cò conCò cõng cò, cái cõng cáiCác nhóm lần lượt đọc to 3 câu trên với việc thay thế động từ cõng bằng các động từ khác có chữ cái đầu tiên là C. Ví dụ : cười, cầm, cắp, cho...Nhóm nào dùng động từ lặ lại động từ đã được 2 nhóm trước sử dụng trước đó hoặc tìm không ra động từ mới thì bị thua.Chú ý : để trò chơi thêm hấp dẫn có thể thay thế chữ cái đầu tiên của động từ bằng các chữ cái khác theo quy ước của quản trò như A, B, D...

Chiếm vị trí
Chuẩn bị : Trên sân chơi vẽ một số vòng tròn có bán kính sao cho từ 1 đến 5 người có thể đứng được trong vòng tròn, tùy số lượng người chơi mà có thể vẽ nhiều hoặc ít.Cách chơi : Cả tập thể có thể đi theo chiều hoặc ngược chiều kim đồng hồ, vừa đi vừa hát một bài.Quản trò hô to “ Vào 3 ( một số bất kỳ từ 1 đến 5 )Người chơi nhanh chóng bước vào vòng tròn thuận lợi nhất sao cho có số người có trong vòng tròn là 3 ( tùy theo yêu cầu của quản trò )Người vào sau làm cho vòng tròn bị thừa so với yêu cầu của quản trò hoặc không tìm ra vị trí cho mình trong vòng tròn sẽ bị phạt.Quản trò hô “ ra “, người chơi tiếp tục hát và chờ hiệu lênh vào của quản tròChú ý : Trò chơi có thể biến đổi bằng cách từng nhóm đi vòng tròn theo bài hát quanh một vòng tròn bằng ghế, số ghế ít hơn số người và cũng dành chỗ khi người quản trò yêu cầu.

Phép lịch sự
Người chơi thực hiện theo mệnh lệnh của quản trò, nếu trong đó có chữ mời, không thực hiện nếu thiếu chữ “ mời “.Ví dụ : Mời các bạn đứng lên - mọi người đứng lên- Tất cả ngồi xuống - không ai thực hiện vì không có chữ mời, ai phạm luật sẽ bị phạt.Chú ý : Quản trò vừa nói vừa làm động tác kể cả lúc không có chữ mời để đánh lừa người khác.

Mắt xích bền bỉ
.Cách chơi : Hai nhóm ngồi cách nhau 10 mét theo hàng ngang, chính giữa có để vật dụng chơi như cục gạch, cái khăn, cành hoa...Khi có lệnh xuất phát, từng nhóm các bạn móc xích với nhau ( tức ngoắt cánh tay vào nhau ) và bắt đầu nhảy ếch đến vật dụng. Đội nào về tới đích cầm vật lên trước là thắng cuộcLuật chơi :- Đội thắng cuộc được tính ba điểm- Đội nào mắt xích bị đứt, bị trừ một điểm ( trò chơi sẽ hấp dẫn nếu nhảy sang ngang ).
Truyền thun bằng miệng
a/ Vật dụng:+ Các đoạn ống hút ngắn (chiếc ống hút cắt đôi).+ Dây thun
b/ Luật chơi:+ 05 đội xếp thành 5 hàng dọc, cùng mức xuất phát.+ Từng thành viên ngậm 1 đoạn ống hút. Người đầu tiên sẽ có sợi thun treo trên ống hút, tìm cách cho sợi thun ấy móc qua ống hút của người kế tiếp. Cứ thế cho đến hết đội.+ Không được dùng tay hay vật gì khác ngoài đoạn ống hút ngậm trên miệng để truyền thun. Ai phạm quy sẽ phải ngừng và làm lại tại trí đó.

Chung sức.
a/ Vật dụng:+ 05 quả bóng lớn (hoặc 05 chiếc bong bóng bơm căng).+ 05 cột mốc ở đích đến.b/ Luật chơi:+ 05 đội xếp thành 5 hàng dọc theo từng cặp, cùng mức xuất phát.+ Từng cặp xoay lưng lại với nhau, kẹp quả bóng ở giữa. Di chuyển nhanh đến đích, vòng qua cột mốc rồi di chuyển ngược về trao cho cặp khác. Cứ thế cho đến hết đội.+ Cặp nào bị rớt bóng giữa đường phải đứng lại, nhặt bóng lên và kẹp giữa 2 lưng rồi di chuyển tiếp.
Nguồn: khuccamta.net ; dẫn theo: http://www.giadinhtruyentin.com/k-n-ng-sinh-ho-t/m-t-s-tro-ch-i-v-n-d-ng

Trò Chơi Sinh Hoạt Trong Phòng


Tìm các con vật có từ láy
Cách chơi: trong hội trường có bảng (nếu có). Quản trò chia ra làm 3 -> 4 nhóm, mỗi nhóm cử 1 bạn lên, quản trò sẽ ra mật hiệu cho các bạn là “Tìm những con vật có từ láy”
Ví dụ: chuồn chuồn, bươm bướm, …
4 đội 1 lượt và 1 người viết con này xong chạy về cho người khác lên viết tiếp… Trong vòng 5 phút đội nào viết được nhiều con vật có từ láy nhiều nhất thì đội đó thắng cuộc.
Nói và làm ngược
* Mục đích: rèn luyện trí nhớ, khéo léo
* Số lượng: 30 người trở lên, có thể chia nhiều nhóm
* Địa điểm: trong phòng, ngoài sân
* Thời gian: 5 -> 7 phút
Cách chơi: người chơi xếp thành vòng tròn
- Quản trò hô: “Các bạn hãy cười thật to”
- Người chơi phải làm ngược lại là: “Khóc thật nhỏ”
- Quản trò hô: “Các bạn hãy nhảy lên”
- Người chơi phải làm ngược lại: “Ngồi xuống đất”
Quản trò sẽ chỉ người trong vòng tròn và nói 1 hành động nào đó thì người chơi phải làm ngược lại. Quản trò có thể thể hiện bằng hành động không cần nói, nếu người chơi không làm ngược lại thì sẽ bị phạt
Đếm sao
* Mục đích: rèn luyện trí nhớ, khéo léo
* Số lượng: 30 người trở lên, có thể chia nhiều nhóm
* Địa điểm: trong phòng, ngoài sân
* Thời gian: 5 -> 7 phút
Cách chơi: quản trò hát bài hát: “Một ông sao sáng, 2 ông sáng sao tôi đố anh chị nào từ 1 hơi đếm hết đến 10 ông sáng sao”.
Người chơi được chỉ định sẽ đếm: 1 ông sao sáng, 2 ông sáng sao, 3 ông sao sáng, 4 ông sáng sao, …, 10 ông sáng sao – nếu như người chơi đếm không dứt 1 hơi thì sẽ bị phạt
Ngón tay nhúc nhích
* Mục đích: rèn luyện trí nhớ, khéo léo* Số lượng: 30 người trở lên, có thể chia nhiều nhóm* Địa điểm: trong phòng, ngoài sân* Thời gian: 5 -> 7 phútCách chơi: quản trò đưa 1 ngón tay lên và hát đếm: “Một ngón tay nhúc nhích nè (2 lần). Một ngón tay nhúc nhích nhúc nhích cũng đủ làm ta vui rồi” – Đưa hai ngón tay thì hát đếm thế 1 ngón thành 2 ngónMột ngón tay ta hát 2 lần nhúc nhích, 2 ngón tay ta hát 4 lần nhúc nhích … cho đến hết bàn tay – nếu người chơi đếm thiếu thì sẽ bị phạt
Hát đếm số* Mục đích: rèn luyện trí nhớ, khéo léo* Số lượng: 30 người trở lên, có thể chia nhiều nhóm* Địa điểm: trong phòng, ngoài sân* Thời gian: 5 -> 7 phútCách chơi: quản trò đưa 1 ngón tay lên thì người chơi bắt bàn hát theo số ngón quản trò đưa raVí dụ: Quản trò đưa 1 ngón tayNgười chơi bắt bài hát: “Một ngón tay nhúc nhích nè (2 lần)Một ngón tay nhúc nhích nhúc nhích cũng đủ làm ta vui rồi”Quản trò đưa 2 ngón tay:Người chơi: “2 con thằn lằn con rủ nhau cắn nhau đứt đuôi …”Quản trò cứ tiếp tục đưa lần lượt các ngón tay nếu như nhóm nào không bắt được bài hát sẽ bị phạt
Tôi bảo* Mục đích: tạo không khí vui tươi* Số lượng: không hạn chế* Địa điểm: ngoài sân, trong phòng* Thời gian: 2 -> 3 phút* Ban tổ chức: 1 quản tròCách chơi:- Quản trò hô: “Tôi bảo tôi bảo”Người chơi hỏi: “Bảo gì bảo gì”- Quản trò nói: “Tôi bảo các bạn vỗ tay 2 cái”Người chơi: vỗ tay 2 lầnKhi quản trò hô “tôi bảo” thì người chơi phải làm theo. Nếu như quản trò không nói “tôi bảo” mà người chơi làm thì sẽ bị phạt
Nguồn: www.khuccamta.net

Một Số Bài Hát Sinh Hoạt Khác

Vòng tròn có một cái tâm , cái tâm ở giữa vòng tròn. Đi sao cho đều cho khéo, vòng tròn đừng méo đừng vuông.Đi một vòng, đi thật nhanh , ta bước đi cho đều 1 2 3 4 – 4 3 2 1.Lui một vòng, lui thật nhanh , ta bước lui cho đều 1 2 3 4 – 4 3 2 1.Vô một vòng, vô thật nhanh , ta bước vô cho đều 1 2 3 4 - 4 3 2 1.Ra một vòng, ra thật nhanh , ta bước ra cho đều 1 2 3 4 – 4 3 2 1.Xoay một vòng, xoay thật nhanh, ta cứ xoay cho đều 1 2 3 4 – 4 3 2 1.Vui là vuiVui là vui là vui chúng mình vui nhiều.Vui là vui là vui chúng mình vui quá.Vui là vui là vui chúng mình vui nhiều.Vui là vui là vui chúng mình quá vui.Chịu chơiChịu chơi chịu chơi chịu chơi sức mấy mà buồnChịu chơi chịu chơi chịu chơi sức mấy mà buồn.Buồn là cù lần, không buồn là chịu chơi.Đi xe lửaNào mời anh lên tàu lửa chúng mình đi. Đi đi khắp nơi mà không thích sao ?Nào mời anh lên tàu lửa chúng mình đi. Đi đi khắp nơi mà không tốn tiền.Thi nhau đi bộMột cây số mỏi chân rồi, đường còn xa lắm không? Một cây số mỏi chân rồi , tội nghiệp quá đôi giầy.(1,2)Hai cây số mỏi chân rồi , đường còn xa lắm không? Hai cây số mỏi chân rồi, tội nghiệp quá đôi giầy. (1,2,3,4,….10)Nào về đâyNào về đây ta họp mặt cùng nhau.Cuộc đời vui thú có lúc này thảnh thơi.Anh với em ta cùng sống vui cho trọn ngày.Rồi mai này chúng ta lại gặp nhau.Ta ca ta hátTang tang tang tình tang tính. Ta ca ta hát vang lên , hát lên cho đời tươi thắm hát lên cho quên nhọc nhằn. Cùng nhau ta ca hát lên cho át tiếng chim trong rừng. Cho tiếng suối reo phải ngừng, cho rừng xanh đón chờ ta. La la la.Đôi tayĐôi tay trên vai chúng ta bước đều. ( Vòng tròn, xoay mặt về bên trái. Đặt 2 tay lên đôi vai người bên trái)Tay ta giơ lên cao giúp ta thấu hiểu. (Tay trái hướng lên cao)Tay ta đặt trên mình nhận ta hèn yếu. (Tay phải đặt trên ngực phía quả tim)Tay ta hướng về tay kết đòan tình thương yêu. ( tất cả tay phải hướng vào trong tâm vòng tròn)Đường đi không khóĐường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi. Nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông.Anh em ta ơi! Đường trường còn dài, còn nhiều trở ngại , còn nhiều gian khó.Anh em ta ơi! Kiên gan, kiên tâm, quyết tâm vượt qua.

Quây quầnCùng quây quần ta vui vui vui.Ta hát với nhau chơi chơi chơi.Rồi lên tiếng vui cười cười cười.Làm vui thú bao người người người.Chào người bạnChào người bạn mới đến góp thêm một niềm vui, chào người bạn mới đến góp thêm bao nụ cười. Đến đây chơi đến đây vui làm vườn hoa muôn màu muôn sắc, đến đây chơi, đến đây vui làm bài ca ấm áp tình người.Bài ca tạm biệtGặp nhau đây rồi chia tay, ngày vàng như đã vụt qua trong phút giây.Niềm hăng say, còn chưa phai, đường trường sông núi hẹn mai ta sum vầy, đường trường sông núi hẹn mai ta sum vầy.Tạm biệtNhững giây phút vui bên nhau qua rồi.Chỉ còn lại trong tim là nỗi nhớChỉ còn lại trong tim là kỉ niệm.Tạm biệt nhé! Tam biệt nhé ! Bạn ơi!Múa vuiCùng nhau múa xung quanh vòng, cùng nhau múa cùng vui.Cùng nhau múa xung quanh vòng, vui cùng vui múa đều.Nắm tay nhau, bắt tay nhau, vui cùng vui múa vui.Nắm tay nhau, bắt tay nhau, vui cùng vui múa đều.Quả bóng xanhTrái đất này là của chúng mình. Quả bóng xanh bay giữa trời xanh. Bồ câu ơi, tiếng chim gù thương mến. Hải âu ơi, cánh chim vờn trên sóng. Cùng bay nào (vỗ tay ba tiếng), cùng bay nào (vỗ tay ba tiếng) cho trái đất quay. Cùng bay nào (vỗ tay ba tiếng), cùng bay nào (vỗ tay ba tiếng) cho trái đất quay.Trái đất này là của chúng mình. Vàng trắng đen, tuy khác màu da. Bạn thân ơi chúng ta là hoa quý, đầy hương thơm nắng tô màu tươi sáng. Màu da nào (vỗ tay ba tiếng), màu da nào (vỗ tay ba tiếng) cũng quý cũng thơm. Màu da nào (vỗ tay ba tiếng), màu da nào (vỗ tay ba tiếng) cũng quý cũng thơm.Không ai là một hòn đảoTôi chỉ thực sự là người nếu tôi sống với anh em tôi, đâu phải ai xa lạ mà là người đang đứng bên tôi. Thế giới này không ai là một hòn đảo, vườn hoa này, không có loài hoa lạc loài.Nét đẹpCuộc đời quanh ta có biết bao là nét đẹp. Là lòng bao dung hy sinh, là tình yêu thương. Nét đẹp quanh ta có lúc là một nụ cười, một cái bắt tay, một lời hỏi thăm. Bạn ơi xin hãy góp những nét đẹp cho đời, và biết khám phá hết những nét đẹp trong đời.Gồ ghêGồ ghê, gồ ghê, gồ ghê khen anh hai một cái bà con ơi.Gồ ghê, gồ ghê, gồ ghê vỗ tay khen anh hai một chầu.

Bên nhauBên nhau xum vầy, bên nhau quây quần, cùng nhau hát khúc ca thương yêu. Tình ta ấm mãi không hề phai nhòa, dù cách xa lòng ta nhớ ta.Bên nhau vui cười, bên nhau nô đùa trời trong sáng gió mây dịu dàng, cỏ cây tắm nắng chim rộn chan hòa cùng lá hoa dệt nên khúc ca.Bên nhau chung lời, bên nhau chung lòng tình yêu Chúa đã ban nhưng không. đừng ghen ghét nhé, không giận nhau nhiều, hoài có nhau vì thương mến nhau.Bên nhau trên đường, bên nhau trong đời cùng đi tới dấn thân cho người, làm tia sáng đến soi vào sương ngàn làm muối tan hòa trong thế gian.Ngón tay nhúc nhíchMột ngón tay nhúc nhích này .Một ngón tay nhúc nhích này .Một ngón tay nhúc nhích nhúc nhích .Đủ làm ta vui rồiĐừng để đến ngày maiViệc gì làm hôm nay ta hãy làm ta quyết làm .Việc gì làm hôm nay đừng để đến đến ngày mai .Việc gì làm hôm nay không bao giờ trở lại .Việc gì làm hôm nay ta quyết làm là làm cho xong .Ơ một ngày đã qua ,một ngày đã qua ta đã làm gì ? Ngày là ngày dần qua .Đêm là đêm dần tới .Ơ bạn bè anh em tự hỏi lương tri :Ta đã làm gì cho ngày hôm nay ?Nguồn thậtAnh em chúng ta chung một đường lênChung một đường lên đến nơi nguồn thật .Nguồn thật là đây sức sống vô biênSống vô viên là sống cùng tạo vậtĐường xaMột hai ba con đường ôi xa quá.mỏi chân rồi mà đường vẫn còn xa .Nhưng hôm nay nghe niềm vui thật lạ.Chúng ta cùng nhau bước một hai ba.Câu cáChiều nay em đi câu cávà mang rá theo bắtcua .Làm sao cho đựoc kha khá về cho má nấu canh chua .Ơ kìa con cua.Ơ kìa con cua.Đừng la lớn nó chui xuống hang ,Đừng la lớn nó chui xuống hang

Hát to hát nhỏTa hát to hát nhỏ nhò nho, rồi mình ngồi kể chuyện cho nhau nghe, ô ố ô ồ, ô ố ô ồ, ta vui ca hát cho vui đời ta.

Sum HọpAnh em ta về cùng nhau ta sum họp này (1,2,3,4,5). Anh em ta về cùng nhau ta quây quần này (5,4,3,2,1). 1 đều chân bước nhé, 2 quay nhìn nhau đi, 3 cầm tay chắc nhé không muốn ai chia lìa, 4 nhớ rằng chúng ta bốn bể anh em một nhà, 5 nhớ mãi tình này trong câu ca
Nụ cười hồngNụ cười hồng, ta trao nhau, như khúc hát cho bao lời thiết tha. Nụ cười hồng, ta trao nhau, như ánh muôn ngàn vì sao.ĐK: Trên môi, như hoa tươi, nở từng ngày trong những yêu thương. Trên môi, hoa xinh xinh, nụ cười hồng mãi mãi trao nhau.

Đôi tay Chọc quê
Mắc cỡ gì mà hổng chịu lẹ dùm, (lẹ dùm)3 đồ quỷ. Cái mặt chuối chiên mà làm duyên làm dáng, cái mặt bánh tráng mà làm dáng làm duyên, đồ quỷ.
Múa đàn
Tình tình đây mấy cây đàn, cùng hòa lên vang lừng vang. Tình tình tình tang tình tang, vang theo câu ca rộn ràng. Cầm đàn em múa nhịp nhàng đánh lên câu tịch tình tang.


Cùng múa vuiCùng nhảy múa chung quanh vòng, nhảy múa cùng vui . Cùng nhảy múa chung quanh vòng, vui cùng vui múa đều. Nắm tay nhau, bắt tay nhau, vui cùng vui múa vui. Nắm tay nhau, bắt tay nhau, vui cùng vui múa đều..Ta ca hátTa ca ta ngồi ta đứng. Ta ca ta đứng ta ca. Đứng ca ta ngồi ta ca. đứng ca ta ca ta ngồi. Ngồi ca ta ca ta đứng ca. Ngồi đứng đứng ca ta ngồi. Ta ngồi ta đứng ngồi ca. Ca ca ca.

Này anh này chị này emNày anh này chị này em, con tim không bao giờ ghen ghét. Này anh này chị này em, con tim không bao giờ ghét ghen. Tim ghét ghen là tim héo hon, tim ghen ghét là tim úa tàn, tim xanh xao là tim thiếu máu, tim ghen ghét là tim hết yêu.


AlybabbaXưa kia kinh đô Bát-đa có 1 chàng trai đáng yêu gọi tên… Alybabba
Anh ta luôn luôn vui tươi nên được mọi người khắp nơi đều thương… Alybabba
Một hôm đang đi ngang khu rừng hoang vắng bỗng anh lặng nghe… Alybabba
Xa xa nơi hang sâu có đoàn người mang súng gươm hò reo… Alybabba
Alybabba đi giày ba ta mất 1/3… Alybabba
Alybabba hôm nay xin mời các bạn cùng nhau ngoáy mông… Alybabba
Hôm nay Alybabba xin mời các bạn sờ tai người cạnh bên… Alybabba
Hôm nay trong ngày hội vui chúng ta cùng nhau cười lên… Ha..hà..ha..hà
Hôm nay trong ngày hội vui chúng ta cùng nhau nắm tay… Alybabba
Alybabba xin mời các bạn cùng nhau vỗ tay… Alybabba……Nào ta cùng đến xem và nghe họ hát….