Ai Có Thẩm Quyền Giải Thích Kho Tàng Đức Tin?

1. Toàn thể Hội Thánh
Kho tàng đức tin chứa đựng trong Kinh Thánh và Thánh Truyền được giao phó cho toàn thể Hội Thánh (xc. SGLHT, 84).
2. Huấn Quyền Hội Thánh
Nhiệm vụ giải nghĩa kho tàng mạc khải một cách chân chính được uỷ thác cho Huấn Quyền sống động của Hội Thánh. Hội Thánh thi hành quyền đó nhân danh Chúa Giêsu Kitô.
3. Huấn Quyền phục vụ Lời Chúa
Huấn Quyền của Hội Thánh không thể vượt lên trên Lời Chúa mà phải phục vụ Lời Chúa. Với sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, Hội Thánh lắng nghe cách thành tâm, trung thành gìn giữ và trình bày Lời Chúa.
(xc. SGLHT, 84-87).

Kinh Thánh Có Tương Quan Gì Với Thánh Truyền Không?

1. Tương quan mật thiết
Thánh Kinh và Thánh Truyền liên quan mật thiết với nhau, vì cùng:
1.1. Một nguồn mạch
Thánh Truyền và Thánh Kinh liên kết và giao lưu mật thiết với nhau, vì cả hai phát xuất từ một nguồn mạch duy nhất là Thiên Chúa, có thể nói là cả hai kết hợp nên một toàn bộ và hướng về cùng một mục đích" ( DV 9). Cả hai đều làm cho mầu nhiệm Ðức Ki-tô được hiện diện và sinh hoa trái trong Hội Thánh, chính Người đã hứa ở lại với môn đệ "mọi ngày cho đến tận thế " (Mt 28, 20) (SLGHT, 80); nhưng:
1.2. Hai cách lưu truyền
1.2.1. Thánh Kinh
"Thánh Kinh là Lời Thiên Chúa được ghi chép lại dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần" (SGLHT, 81).
1.2.2. Thánh Truyền
"Thánh Truyền chứa đựng Lời Thiên Chúa mà Chúa Ki-tô và Chúa Thánh Thần đã ủy thác cho các tông đồ, và lưu truyền toàn vẹn cho những người kế nhiệm các ngài, để nhờ Thánh Thần chân lý soi sáng, họ trung thành gìn giữ, trình bày và phổ biến qua lời rao giảng" (SGLHT, 81).
2. Đón nhận Thánh Kinh và Thánh Truyền như nhau
"Do đó, Hội Thánh, được ủy thác nhiệm vụ lưu truyền và giải thích Mặc Khải, "không chỉ nhờ Thánh Kinh mà biết cách xác thực tất cả những điều mặc khải, chính vì thế, cả Thánh Kinh lẫn Thánh Truyền đều phải được đón nhận và tôn kính bằng một tâm tình yêu mến và kính trọng như nhau"( DV 9)." (SGLHT, 82).

Kinh Thánh Được Lưu Truyền Như Thế Nào?

1. Lời rao giảng của các Tông Đồ
Lời Thiên Chúa được lưu truyền cho Giáo Hội theo mệnh lệnh của Chúa theo hai cách:
1.1. Truyền khẩu
Thời Giáo Hội sơ khai, những lời Chúa dạy và những việc Chúa làm được truyền miệng trong các cộng đoàn. "Bằng lời rao giảng, bằng gương mẫu và các định chế, các tông đồ truyền lại những điều đã học được từ chính miệng Ðức Ki-tô khi sống chung với Người và thấy Người xử sự hoặc những điều các ngài đã được Thánh Thần gợi hứng" (SGLHT, 76).
1.2. Chữ viết
Các Tông Đồ, thế hệ đầu tiên, cứ lần lượt ra đi. Một số người mới nghĩ ra cách nếu không ghi chép lại những lời và những việc Chúa đã nói và đã làm thì sẽ bị thất truyền, nên đã cất công sưu tầm, ghi chép lại thành những sách mà ta gọi là những sách thánh Tân Ước.
2. Mạc Khải được lưu truyền qua những người kế vị các Tông Đồ
Dưới sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần, Hội Thánh trung thành gìn giữ và lưu truyền nguyên vẹn kho tàng mạc khải cho hậu thế. "Ðể Tin Mừng luôn luôn được gìn giữ nguyên vẹn và sống động trong Hội Thánh, các tông đồ đã đặt các Giám Mục làm người kế nhiệm, và trao lại cho họ "trách nhiệm giáo huấn của các ngài" (DV 7). Vì vậy, "những lời giảng dạy của các tông đồ được đặc biệt ghi lại trong các sách linh hứng, phải được bảo tồn và liên tục lưu truyền cho đến tận thế " (DV 8) (SGLHT, 77).

Kinh Thánh Là Gì ?

1. Bộ sưu tập
Kinh Thánh là một bộ sưu tập gồm nhiều bản văn. Bộ sưu tập này được gọi là Sách Thánh. Sách Thánh gồm Cựu Ước và Tân Ước. Cựu Ước là di sản chung của Do Thái Giáo và Kitô Giáo trên khắp hoàn cầu. Còn Tân Ước cũng là Sách Thánh nhưng là di sản của các tín hữu Kitô (Công Giáo, Anh Giáo, Tin Lành và Chính Thông Giáo).
2. Cựu Ước
Cựu Ước gồm 46 cuốn sách: Cựu Ước : Sáng Thế, Xuất Hành, Lê Vi, Dân Số, Ðệ Nhị Luật, Giô-su-ê, Thủ Lãnh, Rút, 1và2 Sa-mu-en, 1và2 Các Vua, 1và 2 Sử Ký, Ê-dơ-ra và Nơ-khe-mi-a, Tô-bi-a, Giu-đi-tha, Ét-te, 1và2 Ma-ca-bê, Gióp, Thánh Vịnh, Châm Ngôn, Giảng Viên, Diễm Ca, Khôn Ngoan, Huấn Ca, I-sa-i-a, Giê-rê-mi-a, Ai-ca, Ba-rúc, Ê-dê-ki-en, Ða-ni-en, Hô-sê, Gio-en, A-mốt, Ô-va-đi-a, Giô-na, Mi-kha, Na-khum, Kha-ba-cúc, Xô-phô-ni-a, Khác-gai, Da-ca-ri-a, Ma-la-khi.
3. Tân Ước
Tân Ước gồm 27 cuốn: Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu, Thánh Mác-cô, Thánh Lu-ca, Thánh Gio-an, Công vụ Tông đồ, Thư Rô-ma, Thư 1 và 2 Cô-rin-tô, Thư Ga-lát, Thư Ê-phê-sô, Thư Phi-líp-phê, Thư Cô-lô-xê, Thư 1và2 Thê-xa-lô-ni-ca, Thư 1và 2 Ti-mô-thê, Thư gởi cho Ti-tô, Thư gởi Phi-lê-mon, Thư Do-thái, Thư Thánh Gia-cô-bê, Thư 1và2 Thánh Phê-rô, Thư 1, 2 và 3 Thánh Gio-an, Thư Thánh Giu-đa, Khải Huyền.

Kinh Thánh - Kho Tàng Tri Thức

1. Lịch sử niềm tin
Kinh Thánh ghi lại những kinh nghiệm sống đức tin của dân tộc được tuyển chọn vào Thiên Chúa duy nhất. Đức tin đó được thể nghiệm qua nhiều giai đoạn khác nhau: lúc thịnh lúc suy. Đức tin đó được thử thách qua dòng lịch sử của một dân tộc. Dân Israel đã sống kinh nghiệm đức tin với chiều dài bằng những cam go thử thách. Kinh Thánh chứa đựng một kho tàng kinh nghiệm sống của cả một dân tộc tin tưởng vào một Thiên Chúa luôn luôn trung tín và đầy lòng yêu thương.
2. Kho tàng tri thức nhân văn
Dân tộc Israel đã trải qua một lịch sử hình thành đầy biến động. Dân tộc thánh đã rút ra những bài học về cách sống với Thiên Chúa, với thiên nhiên, với lân bang và với chính mình. Từ thực tế cuộc sống, dân Israel đã đúc rút lại thành tục ngữ ca dao để dạy dỗ con cái biết sống hài hoà với các tương quan khác. Các sách giáo huấn như Thánh Vịnh, Châm Ngôn, Huấn Ca... chứa đựng tri thức nhân văn rất thâm thuý. Đó là những bài học dạy làm người, làm người quân tử: trên biết có Trời, dưới biết có người.
3. Tri thức mang ơn cứu độ
Trong Kinh Thánh có thể chứa đựng nhiều loại tri thức khác. Kinh Thánh thách thức nhân loại phải suy tư và truy tầm về nguồn cội của mình. Kinh Thánh cũng giúp con người khám phá ra các khoa học như khoa khảo cổ học...
Kinh Thánh không nhắm truyền đạt tri thức nhân loại, để nhờ đó, con người hiểu sâu biết rộng. Kinh Thánh dạy cho con người con đường về Nước Trời, hay nói cách khác Kinh Thánh dạy con người biết tìm ơn cứu độ cho chính mình: "Sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giêsu Kitô" (Ga 17,3).

Kiến Thức Kinh Thánh

Kinh Thánh - Thư Viện Sống
Kinh Thánh - Kho Tàng Tri Thức
Kinh Thánh Là Gì ?
Lưu Truyền Mạc Khải
Tương Quan Giữa Thánh Kinh Và Thánh Truyền
Giải Nghĩa Kho Tàng Đức Tin

Kinh Thánh - Thư Viện Sống

1. Lời Thiên Chúa
Kinh Thánh chứa đựng kho tàng mạc khải của Thiên Chúa. Kinh Thánh là Lời của Thiên Chúa. Lời đó bất di bất dịch.
2. Lời sáng tạo
Lời Thiên Chúa là Lời đầy quyền lực sáng tạo: "Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành,và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành" (Ga 1,3). Nhờ Lời đó, tất cả mọi sự trên trời dưới đất mới được tạo thành, và cũng nhờ Lời đó mà muôn vật được tồn tại.
3. Lời ban sự sống
Lời Thiên Chúa là lời ban sự sống. Ngay từ chương đầu sách Sáng Thế, chúng ta đã thấy là Thiên Chúa đã dùng Lời Ngài mà tác thành vạn vật. Thiên Chúa phán một lời, tức là lời đó thành hành động. Nhờ Lời đó sự sống xuất hiện. Lời Thiên Chúa là chính Thiên Chúa, mà ở nơi Thiên Chúa là sự sống, sự sống đó được thông ban cho con người nhờ Lời Thiên Chúa (xc. Ga 1,4).
4. Lời cứu độ
Lời Thiên Chúa có sức mạnh nơi chính Lời của mình. Tự Lời Thiên Chúa có sức mạnh cứu độ con người. Ai nghe Lời Thiên Chúa một cách say sưa và đem ra thực hành, thì Lời đó đảm bảo cho người ấy ơn cứu độ. Toàn bộ Kinh Thánh Tân Ước minh chứng cho chúng ta điều đó.
5. Lời để sống
Kinh Thánh không như một cuốn tiểu thuyết, chỉ cần đọc thoáng qua và chỉ cần đọc một lần là nắm được nội dung cốt truyện. Kinh Thánh là kinh nghiệm sống đức tin của một dân tộc, dân tộc được tuyển chọn; không chỉ có thế thôi, Kinh Thánh còn là một lịch sử giao ước tình yêu Thiên Chúa biểu lộ cho con người trải qua nhiều thời đại và nhiều cách thức. Do đó, Kinh Thánh là Lời để đọc, để suy, để chiêm, để nghiệm và để sống. Kinh Thánh không bao giờ lỗi thời hay hết mốt. Kinh Thánh luôn "hot", "new".

Bài 5: Thiên Chúa Đến Gặp Con Người

1. Thiên Chúa bày tỏ kế hoạch yêu thương
"Thiên Chúa nhân lành và khôn ngoan đã muốn mặc khải chính mình và tỏ cho mọi người biết mầu nhiệm thánh ý Người. Nhờ đó, loài người có thể đến cùng Chúa Cha, nhờ Chúa Kitô, Ngôi Lời nhập thể trong Chúa Thánh Thần, và được thông phần bản tính của Thiên Chúa" (DV 2).
Thiên Chúa đích thân tỏ cho con người thì con người mới biết Người là ai, đặc biệt hơn nữa là Ngài đã bày tỏ ý định yêu thương cho con người qua nhiều giai đoạn một cách tiệm tiến. Giống như đứa trẻ tiếp cận với nguồn tri thức thì phải học lần lượt từ mẫu giáo, lớp 1 rồi lớp 2... Cứ thế từ thấp lên cao. Thiên Chúa cũng sử dụng khoa sư phạm tiệm tiến để bày tỏ cho con người biết mầu nhiệm thánh ý Ngài.
2. Các giai đoạn mạc khải
Thuở đầu, Thiên Chúa tỏ mình ra cho tổ tông chúng ta, rồi Ngài thiết lập giao ước với ông Noe. Sau đó, Thiên Chúa tuyển chọn ông Ápraham, nhờ ông, mọi dân tộc sẽ được chúc phúc. Qua dòng dõi được tuyển chọn, Thiên Chúa huấn luyện dân được tuyển chọn là Israel để chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế.
3. Đức Giêsu Kitô là sự viên mãn của toàn bộ mạc khải
"Thuở xưa nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã dùng các ngôn sứ mà phán dạy cha ông ta; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy ta qua Con của Người " (Dt 1, 1-2). Ðức Ki-tô, Con Thiên Chúa làm người, là Lời duy nhứt, hoàn hảo và dứt khoát của Chúa Cha. Nơi Người, Thiên Chúa phán dạy mọi sự, và sẽ không có lời nào khác ngoài Lời đó" (SGLHT, 65).
4. Không còn mạc khải chung nào nữa
Mạc khải của Thiên Chúa đã được hoàn tất nơi Đức Giêsu Kitô, sẽ không còn mạc khải nào nữa. Tuy nhiên, trong lịch sử ta vẫn nghe nói đến những "mạc khải tư". Mạc khải tư là mạc khải được ban cho một cá nhân nào đó và được Giáo Hội công nhận. Loại mạc khải này không thuộc kho tàng đức tin. Nó không "cải thiện hoặc bổ sung Mạc Khải tối hậu của Đức Kitô, mà để giúp người ta sống Mạc Khải cách trọn vẹn hơn vào một thời điểm lịch sử" (SGLHT, 67).

Bài 4: Ngôn Ngữ Nói Về Thiên Chúa

1. Con người giới hạn
Phải nói một điều ngay từ đầu rằng con người là một thụ tạo có giới hạn. Con người dù có trí khôn trổi vượt trên các loài thụ tạo khác, thì cũng không thể hiểu thấu hết những sự trên đời, phương chi là Đấng Tạo Hoá. Con người chỉ có thể hiểu thế giới này ít hoặc nhiều chứ không ai hiểu được tất cả.
2. Có thể nói về Thiên Chúa
Vậy thì con người có thể nói về Thiên Chúa không? Dù bị giới hạn bởi không gian và thời gian, con người dựa vào vẻ đẹp thiên hình vạn trạng của các loại thụ tạo để nói về Thiên Chúa. Thiên Chúa vượt xa những gì con người có thể tượng tượng, nên con người phải không ngừng luyện lọc ngôn ngữ. Chúng ta có thể nói về Thiên Chúa một cách loại suy, ví dụ: chúng ta loại suy từ tình thương của người cha trong gia đình đối với con cái mình để nói về tình Thiên Chúa như người cha đối với con cái loài người; tuy nhiên, tình yêu thương của Thiên Chúa còn vượt xa hơn, hơn thế nữa! "Chúng ta không thể hiểu được Thiên Chúa như thế nào, mà chỉ hiểu được Người không như thế nào, và những hữu thể khác có vị trí nào trong tương quan với Thiên Chúa (thánh Tôma Aquinô).
3. Chân lý bất biến
Thiên Chúa là Chân Lý tuyệt đối và bất biến. Ngài trước sau như một, không hề thay đổi, không hề lừa dối ai và cũng không bị ai lừa dối. Chân Lý đó được chứa đựng trong kho tàng mạc khải của Thiên Chúa, tức là Thánh Kinh và Thánh Truyền.
4. Cách trình bày Chân Lý phải phù hợp
Chân Lý là một, trước sau vẫn thế. Còn cách trình bày thì có thay đổi theo dòng thời gian. Chân Lý Đức Tin mà các Tông Đồ đón nhận từ Đức Kitô như thế nào thì cũng được truyền lại cho các thế hệ sau và cho đến ngày nay cũng như vậy. Thời các Tông Đồ đi rao giảng không có internet, không có loa đài; còn bây giờ các môn đệ Đức Kitô đi rao giảng có thể sử dụng các phương tiện truyền thông để rao giảng. Con người ngày nay sẽ có suy nghĩ, não trạng khác với con người thời xưa; do đó khi rao giảng cho người ngày nay phải sử dụng những ngôn từ hay những biểu tượng phù hợp với tâm thức của người thời nay thì họ mới lãnh hội được sứ điệp cứu độ.

Bài 3: Những Con Đường Giúp Nhận Biết Thiên Chúa

1. Thế giới thụ tạo
"Căn cứ vào vận hành và biến hóa của thế giới, tính cách vô thường, trật tự và vẻ đẹp của nó, người ta có thể nhận biết Thiên Chúa như là nguyên thủy và cùng đích của vũ trụ" (SGLHT, 32).
2. Con người
"Với tâm hồn cởi mở đón nhận sự thật và vẻ đẹp, với lương tri, tự do và tiếng nói của lương tâm, với khát vọng vươn tới vô tận và hạnh phúc, con người tự hỏi về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Qua những đặc tính trên , con người nhận ra những dấu chỉ cho thấy mình có linh hồn. "Vì mầm sống vĩnh cửu mà con người mang nơi mình, không thể giản lược chỉ duy vào vật chất" (GS 18, 1 ; x 14, 2), nên linh hồn con người chỉ có thể xuất phát từ Thiên Chúa" (SGLHT, 33).
3. Những con đường không chắc chắn
"Trong những hoàn cảnh cụ thể của mình, con người rất khó nhận biết Thiên Chúa nếu chỉ dựa vào ánh sáng của lý trí :
Lý trí con người nhờ sức lực và ánh sáng tự nhiên của mình, có thể nhận biết cách xác thật và chắc chắn về một Thiên Chúa hữu ngã, Ðấng bảo vệ và điều khiển thế giới bằng sự quan phòng, cũng như về luật tự nhiên mà Ðấng Sáng tạo đã đặt trong tâm hồn chúng ta. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều trở ngại ngăn cản lý trí vận dụng hữu hiệu năng lực tự nhiên của nó. Vì những chân lý liên quan đến Thiên Chúa và loài người vượt hẳn lãnh vực khả giác, lại đòi hỏi con người phải xả thân và quên mình khi muốn hành động và sống theo chân lý đó. Ðể nắm bắt những chân lý như thế, tinh thần con người phải chịu nhiều khó khăn do giác quan và trí tưởng tượng, cũng như những ham muốn xấu xa do nguyên tội gây nên. Vì thế, trong những lãnh vực đó, những điều mà con người không muốn là có thật, thì họ dễ dàng tự thuyết phục mình rằng chúng chỉ là điều dối trá hay mơ hồ ( Pi-ô XII, enc. Humani Generis: DS 3875)." (SGLHT, 37).
4. Mạc Khải - Con đường nhận biết Thiên Chúa chắc chắn nhất
Chỉ có một con đường nhận biết Thiên Chúa chắc chắn nhất, khi dựa vào đó con người không sợ sai lầm, đó là con đường do chính Thiên Chúa vạch ra - Mạc Khải.
"Vì thế, con người cần được mặc khải của Thiên Chúa soi dẫn, không những trong những gì vượt quá trí khôn, mà còn trong "những chân lý tôn giáo và luân lý tự nó vốn không vượt quá khả năng lý trí để con người trong hoàn cảnh hiện tại có thể biết được một cách dễ dàng, chắc chắn mà không lẫn lộn sai lầm" ( DS 3876 ; x. Vatican I DS 3005 ; DV 6 ; Th. Tô-ma Aquinô, Tổng luận thần học 1, 1, 1. ) (SGLHT, 38).

Giáo Lý Cho Giới Trẻ

Bài 1: Khát Vọng Sống Vĩnh Hằng
Bài 2: Con Người Khao Khát Thiên Chúa
Bài 3: Những Con Đường Nhận Biết Thiên Chúa
Bài 4: Ngôn Ngữ Nói Về Thiên Chúa
Bài 5: Thiên Chúa Đến Gặp Con Người
Bài 6: Lưu Truyền Mạc Khải
Bài 7: Tương Quan Giữa Thánh Kinh Và Thánh Truyền
Bài 8: Giải Nghĩa Kho Tàng Đức Tin


Bài 2: Con Người Khao Khát Thiên Chúa

1. Tự đáy lòng, con người khát khao Thiên Chúa
"Tận đáy lòng, con người khao khát Thiên Chúa vì con người được tạo dựng do Thiên Chúa và cho Thiên Chúa. Thiên Chúa không ngừng lôi kéo con người đến với mình, và chỉ nơi Thiên Chúa, con người mới tìm gặp chân lý và hạnh phúc mà họ không ngừng tìm kiếm" (SGLHT, 27).
2. Những biểu lộ tìm kiếm Thiên Chúa nơi con người
"Trong lịch sử loài người và cho tới ngày nay, loài người đã diễn đạt việc tìm kiếm Thiên Chúa bằng nhiều cách qua các tín ngưỡng và các thái độ tôn giáo (cầu khẩn, cúng tế, tịnh niệm, phụng tự, v. v... ). Mặc dù có khi còn mơ hồ bất minh, những hình thức này quá phổ biến, đến nổi có thể gọi con người là một hữu thể tôn giáo :
Từ một người, Thiên Chúa đã tạo thành toàn thể nhân loại, để họ ở trên khắp mặt đất. Người đã vạch ra những thời kỳ nhất định cho các dân tộc và những ranh giới cho nơi ở của họ. Như vậy là để họ tìm kiếm Thiên Chúa; may ra họ dò dẫm mà tìm thấy Người, tuy rằng thực sự Người không ở xa mỗi người chúng ta. Thật vậy, chính ở nơi Người mà chúng ta sống, chúng ta cử động và chúng ta có (Cv 17, 26-28)." (SGLHT, 28).
3. Thiên Chúa muốn con người được hạnh phúc
"'Hạnh phúc thay những tâm hồn tìm kiếm Thiên Chúa' (Tv 105, 3). Cho dù con người có thể quên lãng hay chối từ Thiên Chúa, Thiên Chúa vẫn không ngừng kêu gọi mỗi người tìm kiếm Người để được sống và được hạnh phúc. Nhưng sự tìm kiếm này đòi hỏi con người vận dụng tất cả trí tuệ, ý chí chính trực, "một lòng ngay thẳng", và phải có cả chứng từ của người khác hướng dẫn họ kiếm tìm Thiên Chúa." (SGLHT, 30).

Bài 1: Khát Vọng Sống Vĩnh Hằng


1. Khát vọng sống
Con người dù sống trong thời đại, theo tôn giáo hay thuộc một nền văn hoá nào thì cũng đều ước mong được sống, được sống thoải mái và được sống vĩnh hằng. Cái khát vọng sống được ghi khắc vào tâm khảm của con người. Trong các dấu tích cũng như trong nhận thức của con người trải qua các thời đại, con người luôn mong được trường sinh bất tử.

2. Khát vọng sống không được đáp ứng
Dù giàu sang hay thấp hèn, dù nam hay nữ thì ai rồi cũng phải chết. Chết là điểm kết thúc của một đời người, và cũng là lúc ấn định số phận của con người. Biết là sẽ chết, nhưng ai cũng muốn được sống mãi để hưởng phúc. Tại sao con người có khát vọng sống bất diệt lại phải chết? Mỗi nền văn hoá, mỗi tôn giáo dạy cho chúng ta cái nguyên nhân làm cho con người phải chết. Ở đây, chúng tôi chỉ giới hạn nơi niềm tin Kitô giáo. Thuở đầu, con người được sống trong hạnh phúc, nghĩa là không phải nếm cái chết và đau khổ. Thế rồi tình trạng đó bị phá huỷ khi Tổ Tông loài người phạm tội (xc. St 3,1tt). Cái tội đó được hiểu nôm nay là sự từ khước vâng phục Thiên Chúa, Đấng đã dựng nên mọi sự trong đó có con người. Cái tội đó để lại hậu quả thảm khốc cho con người là phải đau khổ và phải chết. Hậu quả đó còn ảnh hưởng lên hậu thế cho đến ngày hôm nay.

3. Hy vọng được sống
Sau khi Tổ Tông phạm tội, ngay lập tức Thiên Chúa đã hứa ban ơn cứu độ cho họ. Tại sao Thiên Chúa lại làm thế? Chỉ vì Thiên Chúa là Tình Yêu. Ngài không muốn con người phải chết đời đời, nên đã hứa sẽ ra tay giải thoát họ khỏi đau khổ, tội lỗi và sự chết đời đời. Lời hứa cứu độ đó được thực hiện qua nhiều giai đoạn và nhiều cách thức trải qua thời kỳ lâu dài gọi là Cựu Ước, và cuối cùng được thực hiện nơi Đức Kitô – Con Thiên Chúa làm người. Đức Kitô làm người mang lại hy vọng cứu độ cho toàn thể nhân loại. Trên trần gian này, con người chỉ tìm được sự sống nơi Ngài (xc. Cv 4,12). Đấng ấy hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một, Đấng Cứu Thế của con người (xc. Dt 13,8).
“Thiên Chúa là Ðấng Toàn Thiện và Hạnh Phúc khôn lường. Theo ý định nhân hậu, Người đã tự ý tạo dựng con người, để họ được thông phần sự sống vĩnh phúc. Do đó, Người đã đến với con người. Thiên Chúa kêu gọi con người, giúp họ tìm kiếm, nhận biết và đem hết tâm lực yêu mến Người. Thiên Chúa triệu tập mọi người đã bị tội lỗi phân tán để hợp nhất thành gia đình của Người là Hội Thánh. Ðể thực hiện điều này, khi tới thời viên mãn, Người đã cử Chúa Con đến làm Ðấng chuộc tội và cứu độ. Trong và nhờ Người Con ấy, Thiên Chúa kêu gọi loài người trở nên nghĩa tử trong Chúa Thánh Thần, và do đó, được thừa kế đời sống hạnh phúc của Người.” (SGLHT, 1).
4. Khoả lấp khát vọng sống
Ai có thể khoả lấp được khát vọng sống vĩnh cửu nơi sâu thẳm lòng người? Ai có thể mang lại hạnh phúc trường tồn cho con người? Ai có thể làm cho con người trở nên bất tử? Câu trả lời phụ thuộc vào lòng tin của mình đối với Đấng là Chúa Sự Sống. Chỉ có Đấng là Cội Nguồn của mọi sự sống mới có thể mang lại cho con người sự sống. Chỉ có Đấng khơi nguồn sự sống mới làm cho con người nên bất tử. Chỉ có Đấng toàn năng tạo nên sự sống mới mang lại hạnh phúc thật cho con người.
Biên soạn: Fx. Trần Kim Ngọc, OP.

Kỹ Năng Sinh Hoạt

Các Dạng Mật Thư Cơ Bản



BẢNG CHỮ CÁI QUỐC TẾ:
A B C D E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W Y Z
I. Quốc ngữ điện tín:- Cách đặt dấu mũ: Thay thế trực tiếp.- Cách đặt dấu thanh: Đặt sau mỗi từ.
Ví dụ: Công cha như núi Thái Sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Sẽ được viết là:Coong cha nhuw nuis Thais SownNghiax mej nhuw nuowcs trong nguoonf chayr ra.
II. Đọc ngược:Có 2 cách đọc:1. Đọc ngược cả văn bản:Ví dụ với câu: Kỹ năng sinh hoạt.Có thể viết là: tạoh hnis gnăn ỹk(jtaoh hnis gnwan xyk) 2. Đọc ngược từng từ:ỹk gnăn hnis tạoh (xyk gnwan hnis jtaoh)III. Đọc lái:
Trong lúc trò chuyện với nhau, thỉnh thoảng chúng ta vẫn thường hay nói lái để tạo ra những tình huống vui nhộn. Từ đó, ta tạo ra những mật thư bằng cách này.Ví dụ ta nghe người nào đó nói:”Ngầu lôi tăng kể mẵn cuối khíu chọ”. Thoạt đầu, ta cứ tưởng anh ta là người mới học tiếng Hoa. Nhưng khi nghe giải thích rõ mới hiểu, thì ra anh ta muốn nói: Ngồi lâu tê cẳng muỗi cắn khó chịu.IV. Đánh vần:
Ở cách này, yêu cầu người dịch phải biết cách đánh vần giống như các em học sinh tiểu học. Nếu đọc lớn lên trong lúc dịch thì sẽ dễ hình dung hơn.
V. Bỏ đầu bỏ đuôi:
Ta chỉ cần bỏ chữ đầu và chữ cuối câu. Phần còn lại chính là nội dung bản tin.
VI. Số thay chữ:
Đây là dạng mật thư rất đơn giản. Ta chỉ cần viết ra 26 chữ cái, rồi sau đó, viết ngay dưới vị trí A là số 1, B là số 2… và Z là số 26. Sau đó dịch bình thường bằng cách: Cứ thấy số nào thì điền chữ tương ứng vào bên dưới
Như vậy, người đố mật thư có thể thay đổi khóa. Thay vì A=1, thì ta có thể cho A=2, 3… hay một số bất kỳ nào khác, hoặc ta không dùng A mà có thể dùng một chữ nào đó = một số nào đó.
VII. Chữ thay chữ:
Khác với loại mật thư “Số thay chữ” ở trên, loạmật thư “Chữ thay chữ” sẽ thể hiện cho chúng ta thấy một bản tin toàn là những chữ khó hiểu. Từ đó, ta phải giải khóa để hiểu những chữ đó muốn nói gì. Ở đây, ta thử với loại chìa khóa A=b. Trước hết ta phải nhập bảng dưới đây:
Như vậy, người đố mật thư có thể thay đổi khóa. Thay vì A=b, thì ta có thể cho A= một chữ bất kỳ nào khác, hoặc ta không dùng A mà có thể dùng một chữ nào đó cũng được.
VIII. Mưa rơi:
Khi nhìn thấy loại mật thư này, ta chỉ cần đi theo mũi tên của khóa. Ở đây, chữ đầu tiên là chữ C, chữ thứ nhì theo hướng đi của khóa là chữ O. Theo đó, ta sẽ dịch được hết bản tin.
IX. Chuồng bò:
Đây là một dạng mật thư rất quen thuộc (còn gọi là mật thư góc vuông – góc nhọn). TRước hết, chúng ta phải nắm rõ 2 khung cơ bản dưới đây. Cứ mỗi ô sẽ chứa 2 chữ:


Với chữ nằm ở phía bên nào thì ta chấm 1 chấm ở phía bên đó.
Riêng ở khung chéo thứ 2, cách thể hiện cũng chưa có sự thống nhất ở nhiều tài liệu khác nhau. Do đó, chúng tôi liên kê ra hết để cho người soạn mật thư tuỳ ý lựa chọn để lập chìa khóa chom mình. Có tất cả 6 cách để thể hiện, ta muốn làm theo kiểu nào thì đặt khóa theo kiểu nấy
Đây là dạng mật thư mà ta thường thấy đăng trên các báo Nhi đồng.
Khi thấy một hình vẽ nào đó, ta phải liên tưởng ngay nó là hình gì? Thí dụ như đó là: hình trái CAM. Nếu thấy bên trên ghi là –C và +N, thì ta cứ thực hiện theo yêu cầu của hình. Tức là CAM – C = AM; AM + N = NAM. Vậy chữ dịch được sẽ là chữ NAM. Cứ thế, ta lần lượt tìm ra ý nghĩa của những hình khác còn lại. Sau đó ráp nối lại sẽ thành một câu có ý nghĩa.Bản mật thư trên sẽ được dịch là: NAM QUỐC SƠN HÀ NAM ĐẾ CƯ.
CÁCH GIẢI MÃ MẬT THƯ
1. Phải hết sức bình tĩnh2. Tự tin nhưng không được chủ quan3. Nghiên cứu khóa giải thật kỹ4. Đặt các giả thiết và lần lượt giải quyết5. Đối với việc giải mật thư trong trò chơi lớn, ta nên sao y bản chính và chia thành nhiều nhóm nhỏ để dịch. Như thế, ta sẽ tận dụng được hết những chất xám trí tuệ ở trong đội. Tránh tình trạng xúm lại, chụm đầu vào tranh dành xem một tờ giấy để rồi kết quả không đi tới đâu, mà dễ làm rách tờ giấy mật thư của chúng ta nữa.6. Cuối cùng, nếu dịch xong, ta viết lại bản bạch văn cho thật rõ ràng, sạch sẽ và đầy đủ ý nghĩa.
Nguồn: http://www.giadinhtruyentin.com/k-n-ng-sinh-ho-t/cac-d-ng-m-t-th-c-b-n

Một Số Trò Chơi Vận Động Khác

Cướp cờ
Chỗ chơi: Sân rộng hoặc đám đất phẳng rộng một bề 30 thước, một bề 20 thước.
Số người chơi: 20 sắp lênVật liệu: 8 cây cờ
Xếp đặt: Chia Đoàn làm 02 phe, mỗi phe đứng một bên. Sau lưng mỗi phe có 4 cây cờ , cắm theo hàng ngang đều nhau.
Cách chơi: Các bạn phải chạy qua lọt hàng rào quân địch, vào chổ cắm cờ để lấy cờ. Vào chỗ cắm cờ rồi, không ai có quyền bắt họ nữa. Vào được rồi lấy một cây cờ đem về, đi ung dung không còn lo như khi đi qua. Có thể lấy một cây cờ hoặc giải thoát cho tất cả tù binh thuộc phe mình. Nếu trong lúc chạy qua bị quân địch sờ phải thì ở tù. Phe nào đem về địa phận mình cả 8 cây cờ thì thắng cuộc.
Cua bò
Chỗ chơi: San hoặc phòng rộngSố nguời chơi: 5 trở lên. Tùy chỗ chơi rộng hẹp mà định số người chơi.Xếp đặt: Nẵm ngửa, mặt và bụng lên trời. Chống với 2 chân và 2 tay, người này nằm nối đuôi người kia.Cách chơi: Nghe còi lịnh, bò ngang với 2 chân 2 tay, ai đến sau cùng phải cõng người đầu tiên một vòng. nếu chỗ chơi hẹp, người chơi đông thì chơi loại dần.
Người cụt đội nón
Chỗ chơi: Sân hoặc phòng rộng
Số người chơi: 10-40.Vật liệu: Mỗi đội 01 cái nón, 1 cái ghế.
Cách chơi: Nghe tiếng còi, bắt đầu chơi, mấy bạn đứng đầu mỗi đội chạy lên dụng miệng ngậm vào vành nón, để lật ngửa ra, tìm cách đội lên đầu đi về rồi trở lại để nón ên nghế, lật úp lại. Không được dùng tay để làm các công việc trên. Xong rồi,chạy về đánh vào tay người thứ 2 để bạn này lên thay mình. đội nào làm xong trước thắng cuộc.

Gánh nước thi
Chỗ chơi: Sân hoặc phòng rộng
Số người chơi: 3-40 ngườiVật liệu: Mỗi đội 2 chén nước đầy
Xếp đặt: Các đội đứng thành hàng dọc. Cách mấy bạn đầu độ 10 thước, vạch một đường. Mấy bạn đứng đầu hàng cầm mỗi bạn một chén nước đầy.
Cách chơi: Nghe tiếng còi lệnh, các bạn đứng đầu mỗi hàng chạy lên đường vạch, để chén nước xuống và chạy về đánh vào tay em thứ nhì, đoạn chạy ra hàng sau mà đứng. Người thứ nhì vội chạy lên cầm chén nước đưa cho người thứ 3 tiếp tục chạy lại.Đội nào chạy mau nhất và còn nước nhiều nhất được cuộc.

Mưa rơi
Chỗ chơi : Trong hội trường, trong vòng tròn hoặc trên xe
Cách chơi : Vòng tròn chú ý theo người điều khiển. Người điều khiển đưa tay dưới thắt lưng vòng tròn vỗ tay nhẹ ( mưa nhỏ ). Người điều khiển đưa tay lên cao dần, vỗ tay to dần và nhanh lên dần. Khi người điều khiển đưa tay qua đầu vòng tròn, vỗ tay nhânh và lớn ( mưa lớn )
Chú ý : Người điều khiển có thể đưa tay lên cao hoặc xuống thấp nhiều lần, với tốc độ nhanh chậm khác nhau để tạo âm thanh hay. Để gợi sự chú ý cho vòng tròn, người điều khiển có thể chia vòng tròn thành hai nhóm và thực hiện theo hay tay của người điều khiển.Trò chơi cũng có thể biến dạng kết hợp tiếng reo theo quy ước. Mưa nhỏ là “ rì, rì...” và khi mưa lớn là “ u,u...” liên tưởng có gió lớn.

Ban nhạc hòa tấu
Vòng tròn có thể được chia thành 4 nhóm :
+ Nhóm 1 : Thực hiện tiếng trống “ Thùng thình “
+ Nhóm 2 : Thực hiện tiếng mỏ “ Tóc tóc “
+ Nhóm 3 : Thực hiện tiếng đàn “ Tùng tùng “
+ Nhóm 4 : Thực hiện tiếng chuông “ Keng keng “Quản trò đưa tay về phía nhóm nào thì nhóm đó sẽ reo vang loại nhạc cụ mà mình được phân côngĐể trò chơi thêm hững thú, quản trò có thể điều khiển một lúc hay tay và khi đưa tay lên thì đồng loạt 4 nhạc cụ đều vang lên và ngân dài nhạc cụ của mình, quản trò chỉ tay dưới đất thì tất cả đều phát ra tiếng “ Hùm hùm ...” và trò chơi được tiếp tục.

Nhà báo tìm dũng sỹ
Vòng tròn cử một người là nhà báo và đi ra khởi vòng ( phòng ). Trong phòng cử một người khác là dũng sỹ. Cả vòng tròn ( phòng ) quan sát thật kỹ những đặc điểm của dũng sỹ. Khi hay tin trong vòng ( phòng ) có một dũng sỹ, nhà báo được cử đến phỏng vấn. Nhà báo có thể hỏi trong vòng tròn ( từ 3 đến 10 câu ) tùy theo vòng tròn quy định. Câu hỏi của nhà báo chỉ có thể được là câu hỏi phủ định hay khẳng định. Ví dụ : Dũng sỹ là nam phải không ? Hoặc dũng sỹ có đeo khăn quàng phải không ? Nếu dũng sỹ là nam thì tất cả vòng tròn vỗ tay, nếu dũng sỹ là nữ thì vòng tròn im lặng lăc đầu. mọi thành viên không được nói, ai nói sẽ bị phạt vi phạm luật chơi. Sau khi hỏi đủ câu hỏi đã quy định sẽ chỉ dũng sỹ đang ngồi trong vòng tròn. Nếu chỉ đúng dũng sỹ đi ra ngoài và thay nhà báo, còn chỉ sai sẽ bị phạt hình phạt do tập thể quy định.
Tìm bạn bằng nửa trái tim
Địa điểm : Chơi ở trong phòng- Chuẩn bị : cắt những trái tim bằng giấy màu, khoảng 4 màu ( số lượng bằng ½ số người chơi ) Sau đó dùng kéo cắt hình răng cưa chia trái tim ra làm 2. Chú ý cắt làm sao cho không có đường cắt nào là giống nhau. Một nửa thì ghi chữ Nếu, một nửa ghi chữ Thì.Cách chơi : người điều khiển chia người chơi thành 2 nhóm, sau đó phát cho 1 người một nửa trái tim. Một người viết vào nửa trái tim theo yêu cầu ( nếu hoặc thì )Sau khi mọi người viết xong, quản trò hô : hãy tìm bạn bằng nửa trái tim.Người chơi nhanh chóng tìm được bạn mình bằng cách so nét cắt của hai nửa khớp nhau. Quản trò chọn 10 cặp nhanh nhất, bình luận từng cặp một xem thử Nếu, Thì của cặp nào có duyên và có ý nghĩa nhất. Trao phần thưởng, trò chơi kết thúc.

Đầu voi đuôi chuột
Chỗ chơi : sân hoặc phòngSố người chơi : 10 hoặc 40.vật liệu : Mỗi đội 1 tờ giấy và một bút chì.Xếp đặt : Ngồi vòng tròn. Chơi từng đội nếu quá 10 người.Cách chơi : Quản trò chuyền tay một tờ giấy trắng. Mỗi người phải viết một câu trả lời câu hỏi của quản trò, nhưng không được xem mấy câu trả lời trướcVí dụ : Quản trò hỏi : lựa hai tên. Họ làm gì ? Với gì ? Ở đâu ? Họ thấy gì ? Nghề gì ? Rồi làm gì ? Và kết quả ra sao ?Sâu cùng quản trò đọc các câu trả lời liên tiếp lên để cùng nhau biết câu chuyện.

Đi trên giấy
Cách chơi : các bạn tham gia trò chơi ( không hạn chế số lượng ) được chia làm nhiều đội bằng nhau. Mỗi bạn chuẩn bị hai tờ giấy vừa bằng bàn chân, các đội xếp hàng dọc ngay vạch xuất phát, vạch đích cách vạch xuất phát từ 5 đến 10 mét. Khi có lệnh của quản trò, bạn đứng đầu của mỗi đội sẽ đi đến đích bằng cách : đặt miếng giấy xuống đất, chân bước đạp lên, sau đó đặt tiếp miếng giấy thứ hai xuống và bước chân còn lại lên đồng thời rút miếng giấy phía sau đặt lên trên. Cứ như thế, các bạn tiếp tục đi đến đích. Khi bạn thứ nhất đã đi đến nơi, bạn tiếp theo của mỗi đội lại bắt đầu đi như trên, cho đến người cuối cùng. Đội nào đến đích trước sẽ thắng. Luật chơi : Khi bước đi, một chân các bạn phải đạp lên giấy và chân kia không được chạm đất. Nếu chạm đất sẽ bị trừ một điểm.

Đối đáp
Người chơi được chia thành 2 nhóm, lần lượt đối đáp theo 3 câu sau :Con cò con cõng con cò cáiCon cò cái cõng con cò conCò cõng cò, cái cõng cáiCác nhóm lần lượt đọc to 3 câu trên với việc thay thế động từ cõng bằng các động từ khác có chữ cái đầu tiên là C. Ví dụ : cười, cầm, cắp, cho...Nhóm nào dùng động từ lặ lại động từ đã được 2 nhóm trước sử dụng trước đó hoặc tìm không ra động từ mới thì bị thua.Chú ý : để trò chơi thêm hấp dẫn có thể thay thế chữ cái đầu tiên của động từ bằng các chữ cái khác theo quy ước của quản trò như A, B, D...

Chiếm vị trí
Chuẩn bị : Trên sân chơi vẽ một số vòng tròn có bán kính sao cho từ 1 đến 5 người có thể đứng được trong vòng tròn, tùy số lượng người chơi mà có thể vẽ nhiều hoặc ít.Cách chơi : Cả tập thể có thể đi theo chiều hoặc ngược chiều kim đồng hồ, vừa đi vừa hát một bài.Quản trò hô to “ Vào 3 ( một số bất kỳ từ 1 đến 5 )Người chơi nhanh chóng bước vào vòng tròn thuận lợi nhất sao cho có số người có trong vòng tròn là 3 ( tùy theo yêu cầu của quản trò )Người vào sau làm cho vòng tròn bị thừa so với yêu cầu của quản trò hoặc không tìm ra vị trí cho mình trong vòng tròn sẽ bị phạt.Quản trò hô “ ra “, người chơi tiếp tục hát và chờ hiệu lênh vào của quản tròChú ý : Trò chơi có thể biến đổi bằng cách từng nhóm đi vòng tròn theo bài hát quanh một vòng tròn bằng ghế, số ghế ít hơn số người và cũng dành chỗ khi người quản trò yêu cầu.

Phép lịch sự
Người chơi thực hiện theo mệnh lệnh của quản trò, nếu trong đó có chữ mời, không thực hiện nếu thiếu chữ “ mời “.Ví dụ : Mời các bạn đứng lên - mọi người đứng lên- Tất cả ngồi xuống - không ai thực hiện vì không có chữ mời, ai phạm luật sẽ bị phạt.Chú ý : Quản trò vừa nói vừa làm động tác kể cả lúc không có chữ mời để đánh lừa người khác.

Mắt xích bền bỉ
.Cách chơi : Hai nhóm ngồi cách nhau 10 mét theo hàng ngang, chính giữa có để vật dụng chơi như cục gạch, cái khăn, cành hoa...Khi có lệnh xuất phát, từng nhóm các bạn móc xích với nhau ( tức ngoắt cánh tay vào nhau ) và bắt đầu nhảy ếch đến vật dụng. Đội nào về tới đích cầm vật lên trước là thắng cuộcLuật chơi :- Đội thắng cuộc được tính ba điểm- Đội nào mắt xích bị đứt, bị trừ một điểm ( trò chơi sẽ hấp dẫn nếu nhảy sang ngang ).
Truyền thun bằng miệng
a/ Vật dụng:+ Các đoạn ống hút ngắn (chiếc ống hút cắt đôi).+ Dây thun
b/ Luật chơi:+ 05 đội xếp thành 5 hàng dọc, cùng mức xuất phát.+ Từng thành viên ngậm 1 đoạn ống hút. Người đầu tiên sẽ có sợi thun treo trên ống hút, tìm cách cho sợi thun ấy móc qua ống hút của người kế tiếp. Cứ thế cho đến hết đội.+ Không được dùng tay hay vật gì khác ngoài đoạn ống hút ngậm trên miệng để truyền thun. Ai phạm quy sẽ phải ngừng và làm lại tại trí đó.

Chung sức.
a/ Vật dụng:+ 05 quả bóng lớn (hoặc 05 chiếc bong bóng bơm căng).+ 05 cột mốc ở đích đến.b/ Luật chơi:+ 05 đội xếp thành 5 hàng dọc theo từng cặp, cùng mức xuất phát.+ Từng cặp xoay lưng lại với nhau, kẹp quả bóng ở giữa. Di chuyển nhanh đến đích, vòng qua cột mốc rồi di chuyển ngược về trao cho cặp khác. Cứ thế cho đến hết đội.+ Cặp nào bị rớt bóng giữa đường phải đứng lại, nhặt bóng lên và kẹp giữa 2 lưng rồi di chuyển tiếp.
Nguồn: khuccamta.net ; dẫn theo: http://www.giadinhtruyentin.com/k-n-ng-sinh-ho-t/m-t-s-tro-ch-i-v-n-d-ng

Trò Chơi Sinh Hoạt Trong Phòng


Tìm các con vật có từ láy
Cách chơi: trong hội trường có bảng (nếu có). Quản trò chia ra làm 3 -> 4 nhóm, mỗi nhóm cử 1 bạn lên, quản trò sẽ ra mật hiệu cho các bạn là “Tìm những con vật có từ láy”
Ví dụ: chuồn chuồn, bươm bướm, …
4 đội 1 lượt và 1 người viết con này xong chạy về cho người khác lên viết tiếp… Trong vòng 5 phút đội nào viết được nhiều con vật có từ láy nhiều nhất thì đội đó thắng cuộc.
Nói và làm ngược
* Mục đích: rèn luyện trí nhớ, khéo léo
* Số lượng: 30 người trở lên, có thể chia nhiều nhóm
* Địa điểm: trong phòng, ngoài sân
* Thời gian: 5 -> 7 phút
Cách chơi: người chơi xếp thành vòng tròn
- Quản trò hô: “Các bạn hãy cười thật to”
- Người chơi phải làm ngược lại là: “Khóc thật nhỏ”
- Quản trò hô: “Các bạn hãy nhảy lên”
- Người chơi phải làm ngược lại: “Ngồi xuống đất”
Quản trò sẽ chỉ người trong vòng tròn và nói 1 hành động nào đó thì người chơi phải làm ngược lại. Quản trò có thể thể hiện bằng hành động không cần nói, nếu người chơi không làm ngược lại thì sẽ bị phạt
Đếm sao
* Mục đích: rèn luyện trí nhớ, khéo léo
* Số lượng: 30 người trở lên, có thể chia nhiều nhóm
* Địa điểm: trong phòng, ngoài sân
* Thời gian: 5 -> 7 phút
Cách chơi: quản trò hát bài hát: “Một ông sao sáng, 2 ông sáng sao tôi đố anh chị nào từ 1 hơi đếm hết đến 10 ông sáng sao”.
Người chơi được chỉ định sẽ đếm: 1 ông sao sáng, 2 ông sáng sao, 3 ông sao sáng, 4 ông sáng sao, …, 10 ông sáng sao – nếu như người chơi đếm không dứt 1 hơi thì sẽ bị phạt
Ngón tay nhúc nhích
* Mục đích: rèn luyện trí nhớ, khéo léo* Số lượng: 30 người trở lên, có thể chia nhiều nhóm* Địa điểm: trong phòng, ngoài sân* Thời gian: 5 -> 7 phútCách chơi: quản trò đưa 1 ngón tay lên và hát đếm: “Một ngón tay nhúc nhích nè (2 lần). Một ngón tay nhúc nhích nhúc nhích cũng đủ làm ta vui rồi” – Đưa hai ngón tay thì hát đếm thế 1 ngón thành 2 ngónMột ngón tay ta hát 2 lần nhúc nhích, 2 ngón tay ta hát 4 lần nhúc nhích … cho đến hết bàn tay – nếu người chơi đếm thiếu thì sẽ bị phạt
Hát đếm số* Mục đích: rèn luyện trí nhớ, khéo léo* Số lượng: 30 người trở lên, có thể chia nhiều nhóm* Địa điểm: trong phòng, ngoài sân* Thời gian: 5 -> 7 phútCách chơi: quản trò đưa 1 ngón tay lên thì người chơi bắt bàn hát theo số ngón quản trò đưa raVí dụ: Quản trò đưa 1 ngón tayNgười chơi bắt bài hát: “Một ngón tay nhúc nhích nè (2 lần)Một ngón tay nhúc nhích nhúc nhích cũng đủ làm ta vui rồi”Quản trò đưa 2 ngón tay:Người chơi: “2 con thằn lằn con rủ nhau cắn nhau đứt đuôi …”Quản trò cứ tiếp tục đưa lần lượt các ngón tay nếu như nhóm nào không bắt được bài hát sẽ bị phạt
Tôi bảo* Mục đích: tạo không khí vui tươi* Số lượng: không hạn chế* Địa điểm: ngoài sân, trong phòng* Thời gian: 2 -> 3 phút* Ban tổ chức: 1 quản tròCách chơi:- Quản trò hô: “Tôi bảo tôi bảo”Người chơi hỏi: “Bảo gì bảo gì”- Quản trò nói: “Tôi bảo các bạn vỗ tay 2 cái”Người chơi: vỗ tay 2 lầnKhi quản trò hô “tôi bảo” thì người chơi phải làm theo. Nếu như quản trò không nói “tôi bảo” mà người chơi làm thì sẽ bị phạt
Nguồn: www.khuccamta.net

Một Số Bài Hát Sinh Hoạt Khác

Vòng tròn có một cái tâm , cái tâm ở giữa vòng tròn. Đi sao cho đều cho khéo, vòng tròn đừng méo đừng vuông.Đi một vòng, đi thật nhanh , ta bước đi cho đều 1 2 3 4 – 4 3 2 1.Lui một vòng, lui thật nhanh , ta bước lui cho đều 1 2 3 4 – 4 3 2 1.Vô một vòng, vô thật nhanh , ta bước vô cho đều 1 2 3 4 - 4 3 2 1.Ra một vòng, ra thật nhanh , ta bước ra cho đều 1 2 3 4 – 4 3 2 1.Xoay một vòng, xoay thật nhanh, ta cứ xoay cho đều 1 2 3 4 – 4 3 2 1.Vui là vuiVui là vui là vui chúng mình vui nhiều.Vui là vui là vui chúng mình vui quá.Vui là vui là vui chúng mình vui nhiều.Vui là vui là vui chúng mình quá vui.Chịu chơiChịu chơi chịu chơi chịu chơi sức mấy mà buồnChịu chơi chịu chơi chịu chơi sức mấy mà buồn.Buồn là cù lần, không buồn là chịu chơi.Đi xe lửaNào mời anh lên tàu lửa chúng mình đi. Đi đi khắp nơi mà không thích sao ?Nào mời anh lên tàu lửa chúng mình đi. Đi đi khắp nơi mà không tốn tiền.Thi nhau đi bộMột cây số mỏi chân rồi, đường còn xa lắm không? Một cây số mỏi chân rồi , tội nghiệp quá đôi giầy.(1,2)Hai cây số mỏi chân rồi , đường còn xa lắm không? Hai cây số mỏi chân rồi, tội nghiệp quá đôi giầy. (1,2,3,4,….10)Nào về đâyNào về đây ta họp mặt cùng nhau.Cuộc đời vui thú có lúc này thảnh thơi.Anh với em ta cùng sống vui cho trọn ngày.Rồi mai này chúng ta lại gặp nhau.Ta ca ta hátTang tang tang tình tang tính. Ta ca ta hát vang lên , hát lên cho đời tươi thắm hát lên cho quên nhọc nhằn. Cùng nhau ta ca hát lên cho át tiếng chim trong rừng. Cho tiếng suối reo phải ngừng, cho rừng xanh đón chờ ta. La la la.Đôi tayĐôi tay trên vai chúng ta bước đều. ( Vòng tròn, xoay mặt về bên trái. Đặt 2 tay lên đôi vai người bên trái)Tay ta giơ lên cao giúp ta thấu hiểu. (Tay trái hướng lên cao)Tay ta đặt trên mình nhận ta hèn yếu. (Tay phải đặt trên ngực phía quả tim)Tay ta hướng về tay kết đòan tình thương yêu. ( tất cả tay phải hướng vào trong tâm vòng tròn)Đường đi không khóĐường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi. Nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông.Anh em ta ơi! Đường trường còn dài, còn nhiều trở ngại , còn nhiều gian khó.Anh em ta ơi! Kiên gan, kiên tâm, quyết tâm vượt qua.

Quây quầnCùng quây quần ta vui vui vui.Ta hát với nhau chơi chơi chơi.Rồi lên tiếng vui cười cười cười.Làm vui thú bao người người người.Chào người bạnChào người bạn mới đến góp thêm một niềm vui, chào người bạn mới đến góp thêm bao nụ cười. Đến đây chơi đến đây vui làm vườn hoa muôn màu muôn sắc, đến đây chơi, đến đây vui làm bài ca ấm áp tình người.Bài ca tạm biệtGặp nhau đây rồi chia tay, ngày vàng như đã vụt qua trong phút giây.Niềm hăng say, còn chưa phai, đường trường sông núi hẹn mai ta sum vầy, đường trường sông núi hẹn mai ta sum vầy.Tạm biệtNhững giây phút vui bên nhau qua rồi.Chỉ còn lại trong tim là nỗi nhớChỉ còn lại trong tim là kỉ niệm.Tạm biệt nhé! Tam biệt nhé ! Bạn ơi!Múa vuiCùng nhau múa xung quanh vòng, cùng nhau múa cùng vui.Cùng nhau múa xung quanh vòng, vui cùng vui múa đều.Nắm tay nhau, bắt tay nhau, vui cùng vui múa vui.Nắm tay nhau, bắt tay nhau, vui cùng vui múa đều.Quả bóng xanhTrái đất này là của chúng mình. Quả bóng xanh bay giữa trời xanh. Bồ câu ơi, tiếng chim gù thương mến. Hải âu ơi, cánh chim vờn trên sóng. Cùng bay nào (vỗ tay ba tiếng), cùng bay nào (vỗ tay ba tiếng) cho trái đất quay. Cùng bay nào (vỗ tay ba tiếng), cùng bay nào (vỗ tay ba tiếng) cho trái đất quay.Trái đất này là của chúng mình. Vàng trắng đen, tuy khác màu da. Bạn thân ơi chúng ta là hoa quý, đầy hương thơm nắng tô màu tươi sáng. Màu da nào (vỗ tay ba tiếng), màu da nào (vỗ tay ba tiếng) cũng quý cũng thơm. Màu da nào (vỗ tay ba tiếng), màu da nào (vỗ tay ba tiếng) cũng quý cũng thơm.Không ai là một hòn đảoTôi chỉ thực sự là người nếu tôi sống với anh em tôi, đâu phải ai xa lạ mà là người đang đứng bên tôi. Thế giới này không ai là một hòn đảo, vườn hoa này, không có loài hoa lạc loài.Nét đẹpCuộc đời quanh ta có biết bao là nét đẹp. Là lòng bao dung hy sinh, là tình yêu thương. Nét đẹp quanh ta có lúc là một nụ cười, một cái bắt tay, một lời hỏi thăm. Bạn ơi xin hãy góp những nét đẹp cho đời, và biết khám phá hết những nét đẹp trong đời.Gồ ghêGồ ghê, gồ ghê, gồ ghê khen anh hai một cái bà con ơi.Gồ ghê, gồ ghê, gồ ghê vỗ tay khen anh hai một chầu.

Bên nhauBên nhau xum vầy, bên nhau quây quần, cùng nhau hát khúc ca thương yêu. Tình ta ấm mãi không hề phai nhòa, dù cách xa lòng ta nhớ ta.Bên nhau vui cười, bên nhau nô đùa trời trong sáng gió mây dịu dàng, cỏ cây tắm nắng chim rộn chan hòa cùng lá hoa dệt nên khúc ca.Bên nhau chung lời, bên nhau chung lòng tình yêu Chúa đã ban nhưng không. đừng ghen ghét nhé, không giận nhau nhiều, hoài có nhau vì thương mến nhau.Bên nhau trên đường, bên nhau trong đời cùng đi tới dấn thân cho người, làm tia sáng đến soi vào sương ngàn làm muối tan hòa trong thế gian.Ngón tay nhúc nhíchMột ngón tay nhúc nhích này .Một ngón tay nhúc nhích này .Một ngón tay nhúc nhích nhúc nhích .Đủ làm ta vui rồiĐừng để đến ngày maiViệc gì làm hôm nay ta hãy làm ta quyết làm .Việc gì làm hôm nay đừng để đến đến ngày mai .Việc gì làm hôm nay không bao giờ trở lại .Việc gì làm hôm nay ta quyết làm là làm cho xong .Ơ một ngày đã qua ,một ngày đã qua ta đã làm gì ? Ngày là ngày dần qua .Đêm là đêm dần tới .Ơ bạn bè anh em tự hỏi lương tri :Ta đã làm gì cho ngày hôm nay ?Nguồn thậtAnh em chúng ta chung một đường lênChung một đường lên đến nơi nguồn thật .Nguồn thật là đây sức sống vô biênSống vô viên là sống cùng tạo vậtĐường xaMột hai ba con đường ôi xa quá.mỏi chân rồi mà đường vẫn còn xa .Nhưng hôm nay nghe niềm vui thật lạ.Chúng ta cùng nhau bước một hai ba.Câu cáChiều nay em đi câu cávà mang rá theo bắtcua .Làm sao cho đựoc kha khá về cho má nấu canh chua .Ơ kìa con cua.Ơ kìa con cua.Đừng la lớn nó chui xuống hang ,Đừng la lớn nó chui xuống hang

Hát to hát nhỏTa hát to hát nhỏ nhò nho, rồi mình ngồi kể chuyện cho nhau nghe, ô ố ô ồ, ô ố ô ồ, ta vui ca hát cho vui đời ta.

Sum HọpAnh em ta về cùng nhau ta sum họp này (1,2,3,4,5). Anh em ta về cùng nhau ta quây quần này (5,4,3,2,1). 1 đều chân bước nhé, 2 quay nhìn nhau đi, 3 cầm tay chắc nhé không muốn ai chia lìa, 4 nhớ rằng chúng ta bốn bể anh em một nhà, 5 nhớ mãi tình này trong câu ca
Nụ cười hồngNụ cười hồng, ta trao nhau, như khúc hát cho bao lời thiết tha. Nụ cười hồng, ta trao nhau, như ánh muôn ngàn vì sao.ĐK: Trên môi, như hoa tươi, nở từng ngày trong những yêu thương. Trên môi, hoa xinh xinh, nụ cười hồng mãi mãi trao nhau.

Đôi tay Chọc quê
Mắc cỡ gì mà hổng chịu lẹ dùm, (lẹ dùm)3 đồ quỷ. Cái mặt chuối chiên mà làm duyên làm dáng, cái mặt bánh tráng mà làm dáng làm duyên, đồ quỷ.
Múa đàn
Tình tình đây mấy cây đàn, cùng hòa lên vang lừng vang. Tình tình tình tang tình tang, vang theo câu ca rộn ràng. Cầm đàn em múa nhịp nhàng đánh lên câu tịch tình tang.


Cùng múa vuiCùng nhảy múa chung quanh vòng, nhảy múa cùng vui . Cùng nhảy múa chung quanh vòng, vui cùng vui múa đều. Nắm tay nhau, bắt tay nhau, vui cùng vui múa vui. Nắm tay nhau, bắt tay nhau, vui cùng vui múa đều..Ta ca hátTa ca ta ngồi ta đứng. Ta ca ta đứng ta ca. Đứng ca ta ngồi ta ca. đứng ca ta ca ta ngồi. Ngồi ca ta ca ta đứng ca. Ngồi đứng đứng ca ta ngồi. Ta ngồi ta đứng ngồi ca. Ca ca ca.

Này anh này chị này emNày anh này chị này em, con tim không bao giờ ghen ghét. Này anh này chị này em, con tim không bao giờ ghét ghen. Tim ghét ghen là tim héo hon, tim ghen ghét là tim úa tàn, tim xanh xao là tim thiếu máu, tim ghen ghét là tim hết yêu.


AlybabbaXưa kia kinh đô Bát-đa có 1 chàng trai đáng yêu gọi tên… Alybabba
Anh ta luôn luôn vui tươi nên được mọi người khắp nơi đều thương… Alybabba
Một hôm đang đi ngang khu rừng hoang vắng bỗng anh lặng nghe… Alybabba
Xa xa nơi hang sâu có đoàn người mang súng gươm hò reo… Alybabba
Alybabba đi giày ba ta mất 1/3… Alybabba
Alybabba hôm nay xin mời các bạn cùng nhau ngoáy mông… Alybabba
Hôm nay Alybabba xin mời các bạn sờ tai người cạnh bên… Alybabba
Hôm nay trong ngày hội vui chúng ta cùng nhau cười lên… Ha..hà..ha..hà
Hôm nay trong ngày hội vui chúng ta cùng nhau nắm tay… Alybabba
Alybabba xin mời các bạn cùng nhau vỗ tay… Alybabba……Nào ta cùng đến xem và nghe họ hát….



Ngân Hàng Bài Hát Sinh Hoạt

Một Số Bài Hát Họp Mặt
Một Số Bài Hát Chia Tay
Một Số Bài Hát Sinh Hoạt Ngắn
Một Số Bài Hát Tập Thể

Ngân Hàng Trò Chơi

Một Số Trò Chơi Vận Động Khác
Trò Chơi Sinh Hoạt Trong Phòng
Trò Chơi Truyền Tin
Trò Chơi Dân Gian
Một Số Trò Chơi Nho Nhỏ
Một Số Trò Chơi Vận Động

Trò Chơi Truyền Tin


Trò chơi truyền tin
Giúp đối tượng chơi có phản xạ nhanh, nhớ chính xác, bí mật, tạo tinh thần đồng đội.
Số lượng : Tùy qui mô tổ chức được chia thành các đội
Nội dung : Truyền thông tin của chỉ huy (quản trò) rồi báo cáo
Cách chơi :
Quản trò chia tập thể chơi thành các đội, số lượng các đội bằng nhau
Các đội đứng thành hàng dọc, cách quản trò cùng một kích thước. Mỗi đội cử một người lên nhận lệnh
Khi có lệnh chơi, người nhận lệnh của các đội chạy lên nhận tin của quản trò và về nói cho người thứ 1, người thứ 1 nói nhỏ cho người thứ 2 (nói thầm vào tai) cứ như thế cho đến người cuối cùng. Người cuối cùng chạy lên nói với quản trò “tin” mà quản trò đã phát ra.
Luật chơi
Đội nào báo tin nhanh, chính xác đội đó thắng.
Đội nào để lộ tin coi như thua
Nếu các đội lên trùng nhau quản trò cho ghi tin vào giấy
Tin được truyền từ người số 1 đến người cuối cùng, không được truyền tắt.
Chú ý:
Quản trò chuẩn bị sẵn các tin vào giấy khi các đội lên nhận, đưa cho người nhận, đọc xong quản trò thu lại
Người cuối cùng viết vào một mảnh giấy, nộp cho quản trò rồi so sánh hai mẩu giấy ghi tin ( Quản trò và các đội)
Đối tượng nhỏ tin ngắn, lớn tin dài.
Các kiểu trong bản tin bằng nhau
Nội dung các tin chọn những câu vui, mang tính hài hước.
Nghĩ các câu đố, các đội phải giải luôn câu đó, tăng mức độ hấp dẫn của trò chơi.

Trò Chơi Đứng Ngồi Nằm Ngủ

Tạo không khí vui vẻ trong sinh hoạt, phát triển phản xạ, rèn luyện trí nhớ.Nội dung: Quản trò cho tập thể chơi học các cách sau:Đứng: Bàn tay phải nắm, giơ thẳng lên đầuNgồi: Bàn tay phải nắm, hai cánh tay vuông góc, bàn tay giơ ngang mặt.Nằm: Bàn tay phải nắm, duỗi tay thẳng phía trước.Ngủ: Bàn tay phải nắm, áp vào má và hô : KhòCách chơi:Quản trò hô những tư thế, động tác theo quy định trên. Quản trò có thể hô đúng hoặc hô đúng làm sai ( hô một đằng làm một nèo). Người chơi phải làm đúng theo lời hô và các động tác đã quy định của quản trò. Phạm luật: Những trường hợp sau phải chịu phạtLàm động tác sai với lời hô của quản trò Không nhìn vào quản trò. Làm chậm, làm không rõ động tác. Chú ý: Tốc độ nhanh chậm tùy thuộc vào đối tượng chơi. Quản trò dùng những từ khác để " lừa" người chơi như tiến, lùi, khò.... tạo không khí.

Công Tác Chuẩn Bị

CÔNG TÁC CHUẨN BỊ
CHUẨN BỊ CHƯƠNG TRÌNH
Thông báo chủ đề và những yêu cầu cụ thể cho từng tiểu trại và cá nhân trong quá trình chuẩn bị và tổ chức lửa trại.
Bố trí thời gian cho các tiểu trại chuẩn bị trước khoảng 24 giờ nếu trại 1 ngày, trại nhiều ngày phải thông báo trước.
Thu thập các tiết mục đăng ký của các đơn vị (nội dung phải bám theo chủ đề) để tiện cho công tác biên tập và dàn dựng kịch bản chương trình lửa trại.
Phân công các tiểu trại tham gia các hoạt động chuẩn bị phục vụ lửa trại (quần áo, y phục hóa trang, tiếng reo, đuốc, nhảy lửa, trò chơi, hóa trang...).
Lên kịch bản và dàn dựng chương trình lửa trại tùy theo qui mô của lửa trại.
Chú ý: Đảm bảo thời gian để các đơn vị chuẩn bị và tập dợt nhằm tránh tình trạng có những sáng tác tức thời cẩu thả vào giờ chót, gọi là góp mặt cho có vị.Chương trình lửa trại phải được chuẩn bị trước nhưng phải giữ bí mật cả về nội dung và hình thức để tạo sự ngạc nhiên lý thú cho người tham dự.
BAN ĐIỀU HÀNH GỒM
+ Quản trò: được xem là người “giữ linh hồn” của đêm lửa trại.
Nhiệm vụ:
Phối hợp với Ban chỉ huy trại để xây dựng chủ đề, chương trình, kịch bản... đêm lửa trại.
Bố cục và sắp xếp chương trình lửa trại, bố trí các hoạt động vui chơi như: các hội thi, băng reo, bài hát, tiết mục xen kẽ thời gian trống trong chương trình lửa trại.
Kiểm tra, nhắc nhở, đôn đốc chương trình đảm bảo đúng thời gian, tiến độ.
Dẫn giải, giới thiệu chương trình, lấp thời gian trống bằng những sinh hoạt cộng đồng.
Chủ động mời đại biểu, quan khách, trại sinh cùng tham gia sinh hoạt lửa trại.
Cắt bỏ những tiết mục không phù hợp.
+ Quản ca: là người phụ trách phần hát, nhảy múa, âm thanh tiếng động trong đêm lửa trại. Đây là người hoạt náo chứ không nhất thiết phải là người hát hay.
Nhiệm vụ:
Phối hợp với quản trò để điều khiển chương trình lửa trại.
Chọn bắt các bài hát phù hợp với nội dung: mở đầu, nhảy lửa, gọi lửa, trại ca, băng reo khen, chê, chúc mừng, mời gọi, hoan hô, cám ơn, hát đuổi, hát bè, hát to, hát nhỏ, hát tàn lửa...
Thúc đẩy cao trào sinh hoạt ca hát hoặc điều chỉnh sự lắng đọng cần thiết theo chủ đề, yêu cầu của đêm lửa trại.
+ Quản lửa:
Nhiệm vụ:
Chịu trách nhiệm chính về các hoạt động có liên quan đến củi lửa. Phải biết kỹ thuật chất củi cho lửa cháy đều, kể cả đặc tính của cây và số lượng củi cần thiết để hoàn tất đêm lửa trại mà không bị củi thừa hay thiếu...
Chọn vị trí, hướng gió, bảo vệ những bãi cỏ, nền xi măng, sắp xếp củi, tăng giảm ngọn lửa, chuột lửa, lửa điện, màu lửa... thu dọn lửa đề phòng hỏa hoạn, kết thúc phải trả lại nguyên trạng như trước khi tổ chức lửa trại.

Cách Khai Mạc Lửa - Châm Lửa

CÁC CÁCH KHAI MẠC LỬA, CHÂM LỬA
Tùy thuộc vào hình thức và nội dung của từng loại lửa trại mà ta có sự khai lửa, châm lửa cho phù hợp để gây cho người dự sự bất ngờ thú vị. Có rất nhiều cách khai lửa, chúng tôi xin đơn cử vài lối khai mạc thông thường để bạn đọc chọn lửa sử dụng và biến chế ra thêm. Nên lưu ý địa thế là một yếu tố quan trọng để lựa chọn loại hình khai lửa, và cần phải tập dợt để khỏi trở ngại cho đến khi khai lửa chính thức.
LỬA DANH DỰ
Đến giờ lửa trại, ban quản trại và các đội tập trung đến khu vực đốt lửa. Khi mọi người đến đông đủ, trại trưởng hoặc người đại diện cao nhất được mời ra để châm lửa khai mạc lửa trại. Người này cầm ngọn đuốc đã chuẩn bị sẵn rồi châm vào đống củi; sau đó phát biểu ý kiến và ủy quyền lại cho quản trò điều khiển đêm lửa trại.
Hoặc đến giờ khai mạc, quản trò hay quản ca hát vang bài “Gọi lửa” rồi mời tất cả cùng tham gia. Các đội reo hò, hát vang những bài ca và bước nhanh đến khu vực lửa trại. Khi các đội đến đông đủ, trại trưởng ra châm lửa, phát biểu ý kiến khai mạc lửa trại.
Châm lửa theo cách này chỉ cần chuẩn bị củi để đốt, dầu hôi và đuốc.
XÂY DỰNG HOẠT CẢNH: THẦN BÓNG TỐI VÀ THẦN ÁNH SÁNG
Đầu tiên là bóng đêm bao trùm, mọi người ngồi hoặc quì quanh đống củi. Những tiếng hú và tiếng động báo hiệu một tai nạn đang ập đến; thần Bóng Tối xuất hiện với những lời gào thét man rợ, quằn quại... bỗng thần Ánh Sáng xuất hiện, trên tay có ngọn lửa diệu kỳ với những lời vọng mang lại sự sống cho loài người khắp thế gian. Thần Bóng Tối hoảng sợ bỏ chạy trong tiếng cười chiến thắng của thần Ánh Sáng. Bài ca gọi lửa vang lên, tất cả cùng nhảy múa. Ngọn lửa bừng sáng soi rọi mọi người tay trong tay bên nhau vang câu ca (có thể kết hợp nhiều cách châm lửa như: dùng chuột lửa, châm đuốc, dây điện...). Hết lời ca, quản trò mời trại trưởng ra khai mạc.
LẤY LỬA BỐN PHƯƠNG
Các đội chuẩn bị cho mỗi đội viên của mình một ngọn đuốc. Các đội trước khi vào lửa trại, cầm đuốc từ 4 hướng chờ hiệu lệnh của người điều khiển. Khi nghe hiệu lệnh hay bài ca “gọi lửa” vang lên, từ 4 hướng các đội đốt đuốc và cùng lúc tiến thẳng vào địa điểm đốt lửa trại. Khi các đội đã đến đủ và đứng thành vòng tròn quanh đống lửa thì từng đội giơ đuốc quay về phía tay phải của mình đi theo vòng tròn nhỏ. Mỗi vòng tròn nhỏ xoay tại chỗ ba vòng và khi nghe tín hiệu bốn vòng tròn nhỏ hợp lại thành một vòng tròn lớn chung quanh đống củi. Quản trò mời đại biểu và trại trưởng ra châm lửa, sau đó các đội tiếp tục lấy đuốc châm vào đống củi cho nó bừng sáng lên. Xong, về vị trí cũ và trại trưởng ra phát biểu khai mạc rồi trao trách nhiệm lại cho quản trò điều khiển chương trình.
Có thể dùng một cách khác như sau:
Dùng sợi dây kẽm căng thẳng từ 4 cành cây gần khu vực lửa trại xuống một cọc đóng giữa đống củi.
- Làm 4 hỏa tiễn bằng cây quấn vải tẩm dầu hay nhựa thông (nếu có thể cột kèm theo pháo bông cho đẹp), làm 2 vòng thép cột trong hỏa tiễn để có thể tuột theo dây kẽm một cách dễ dàng.
- Treo hỏa tiễn ở phía cành cây bằng một sợi dây vải, từ hỏa tiễn làm thêm một sợi dây khác có tẩm dầu rồi thòng xuống đất (lưu ý sợi dây không thòng xuống đất quá để khỏi ảnh hưởng đến người tham dự).
- Khi châm lửa dây vải cháy dần lên làm sáng hỏa tiễn và đứt dây vải, hỏa tiễn theo dây kẽm buộc xuống đống củi làm cháy bừng lên ngọn lửa trại.
- Một chi tiết cần chú ý là làm sao cho 4 hỏa tiễn cùng xuống một lượt thì rất đẹp.
RƯỚC LỬA
Cách châm lửa này thường dùng để khai mạc lửa trại truyền thống. Lửa trại được lấy ở một nơi gần trại như đền thờ một danh nhân, tại một di tích lịch sử...
Rước lửa loại này giống như rước lửa Olimpic hoặc rước lửa trong các Đại hội TDTT. Khi lửa về đến nơi, quản trò cho trại sinh cùng ra đón lửa, ngọn lửa được chuyển đến tay trại trưởng hoặc người khách mời danh dự, sau đó người này châm đuốc vào củi cho cháy sáng lên. Trại trưởng phát biểu khai mạc, giới thiệu với toàn trại ban phụ trách trại rồi ủy quyền cho quản trò điều khiển đêm lửa trại.
Muốn tổ chức cách khai lửa này, ban quản trại cần cử người liên hệ trước với nơi lấy lửa. Chuẩn bị một đội rước lửa thiêng gồm một đội trưởng và hai đội viên có nhiều thành tích hoạt động xuất sắc. Đuốc cũng phải được chuẩn bị tốt để tránh xảy ra sự cố dọc đường. Có thể mang theo 1-2 cây đuốc dự phòng nếu đường đi rước lửa tương đối xa.
Tuy vậy, đường đi từ trại đến nơi lấy lửa không nên vượt quá 1 kilômet.
LẤY LỬA TỪ LÒNG SÔNG, BIỂN
Nếu cắm trại gần sông, biển, hồ nhất là nơi gắn liền với những di tích lịch sử; với những chiến công, truyền thống... thì nên dùng cách lấy lửa này.
Sau khi tập trung xung quanh đống củi, quản trò ra hiệu lệnh, đội lấy lửa chuẩn bị lấy lửa. Quản trò làm điệu bộ và nói to: “Kính mời thần Lửa vào dự lửa trại”. Và lúc đó, một đội viên trong nhóm bảo vệ lửa bí mật kéo lửa từ xa vào bờ. Đội trưởng đội danh dự châm ngọn đuốc vào lửa, lửa bén làm cháy đuốc, đội trưởng giơ cao cây đuốc cùng toàn đội danh dự chạy thong thả vào nơi đốt lửa. Sau đó trao đuốc cho trại trưởng để châm lửa khai mạc lửa trại. Khi lửa bừng cháy thì trại trưởng phát biểu khai mạc lửa trại.
Muốn lấy lửa kiểu này, cần có sự chuẩn bị trước một cách bí mật. Lửa thắp từ một đèn dầu hoặc một đoạn nến lớn đặt trong một cái hoa sen làm bằng giấy bóng kính có màu cánh sen, hoa sen được đặt trên một miếng gỗ nhỏ mỏng (để hoa sen nổi trên mặt nước). Dùng một sợi dây dài, một đầu buộc vào miếng gỗ, còn một đầu buộc vào một cái cọc đóng ở bờ sông, hồ, biển. Để việc kéo lửa được dễ dàng nhanh chóng, có thể buộc đầu dây vào một cái ròng rọc, khi quay ròng rọc, dây thu ngắn lại dần và kéo đèn hoa sen vào bờ.
Nên giữ bí mật để gây bất ngờ cho trại sinh. Có thể chọn cử những người biết bơi giỏi để đưa hoa sen có đèn chưa thắp lửa mang ra xa ngoài bờ một khoảng an toàn. Sau khi có hiệu lệnh, thì những người này mới thắp đèn lên để những người trong bờ kéo đèn vào.
Chú ý: Lửa phải đủ sáng sao cho từ xa đã thấy lửa trên mặt nước, giống như mọc từ trong nước hiện ra.
GỌI LỬA TỪ TRÊN CAO XUỐNG
Khi toàn trại đã có mặt đông đủ quanh đống củi, quản trò bắt nhịp bài hát “Gọi lửa”, sau đó đến trước trại trưởng và nói to: “Xin trại trưởng mời thần lửa từ trên cao xuống khai mạc đêm lửa trại hôm nay”. Trại trưởng bước ra vòng lửa rồi giật mạnh một đầu dây buộc sẵn để ngỏ trên đầu: một mồi lửa từ trên cao rơi xuống trúng vào giữa đống củi, ngọn lửa bùng cháy lên.
Cách châm như sau: dùng 1 sợi dây kẽm chăng từ 2 cây cao sao cho sợi dây chạy ngang qua giữa đống củi. Trên dây kẽm nhớ treo 1 cái ròng rọc hoặc tương tự (cần buộc kỹ để nó không di chuyển được). Dùng 1 sợi dây khác chạy qua ròng rọc, đầu dây gần ròng rọc mang một hộp kim loại (lon sữa bò rỗng 1 đầu) có đựng giẻ tẩm xăng hoặc dầu hôi, hộp này nên đặt trong một cái hộp giấy khác nhằm che không cho ánh sáng của lửa hắt ra ngoài (trại sinh không thấy). Mồi lửa phải treo đúng giữa đống củi và nên buộc bằng dây nhỏ dễ đứt khi bị cháy. Đầu dây còn lại trên ròng rọc bố trí treo ngỏ, cách mặt đất khoảng 1,5m để thuận lợi cho trại trưởng khi kéo dây châm lửa.
Thêm một cách lấy lửa từ trời cao:
Đóng một cọc ngắn xuống đất cách xa đống củi và ngoài vòng người đang đứng tham gia lửa trại. Từ chân cọc ta làm một cây tre dài khoảng 1 mét trở lên; trên đầu tre cắm 1 miếng thiếc (như cái muỗng).
- Dùng dây thun cột vào cọc ngắn và cây tre.
- Làm 1 dây an toàn giữ thân tre với mặt đất.
- Làm 1 mồi lửa tròn để trên mảnh thiếc.
- Khi châm lửa xong muốn khai lửa ta chỉ cần cắt dây an toàn, ngọn tre bị dây thun kéo bắn lên làm mồi lửa tung lên cao và bay theo hình vòng cầu để rơi vào đống củi.
- Cách khai lửa này rất khó khăn và phải tập nhiều lần trước khi thực hiện đêm lửa trại.
- Một chi tiết quan trọng là khi khai lửa kiểu này thì đống củi nên xếp theo hình tứ giác, lục lăng hay bát giác để mồi lửa rơi vào một cách dễ dàng.
Chú ý: Phải là nơi có cây cao để tiện cho việc giăng dây.
DÙNG CHUỘT LỬA (HỎA TIỄN)
Đây là cách châm lửa thông dụng nhất. Chuột lửa đã được chuẩn bị sẵn. Khi được mời châm lửa khai mạc đêm lửa trại, trại trưởng bước tới gần một cái cọc (bằng tre hoặc bằng thân cây gỗ) đóng sẵn ở vòng lửa, dùng diêm hoặc bật lửa châm lửa vào giẻ tẩm dầu và đuôi chuột lửa. Lửa cháy làm đứt dây neo chuột vào cọc; chuột lửa lao thẳng vào đống củi, đốt cháy củi mồi... Khi lửa đã bén, trại trưởng khai mạc lửa trại.
Chú ý: dùng chuột lửa gây được ấn tượng nhưng phải chuẩn bị kỹ càng, đảm bảo cho sự thành công, đặc biệt cần phải thử nhiều lần trước khi thực hiện đêm lửa trại.
CHÂM LỬA BẰNG ĐIỆN
Trại trưởng được mời ra khai mạc lửa, đứng dậy và bước ra vòng lửa chào mọi người; sau đó xoay người chỉ tay vào đống củi và vỗ tay, tức thì lửa bừng cháy lên trong khi quản trò bắt nhịp bài hát nhảy lửa. Xong trại trưởng phát biểu khai mạc lửa trại.
Đây là cách châm lửa bằng dây may-so (dây xoắn kim loại dùng nấu nước sôi bằng điện) được nối với dây điện kép, đặt sát ngầm mặt đất từ ổ cắm điện đến giữa đống củi để đốt. Điều quan trọng là trên dây may-so phải có vải tẩm xăng hay dầu hôi và vài cây diêm cho nó dễ bắt lửa. Khi có hiệu lệnh của trại trưởng, người phụ trách cắm dây điện với dây may-so, tức thì sẽ đốt cháy vải và bừng cháy. (Cần giữ an toàn tuyệt đối khi thực hiện các động tác này).
KHAI LỬA BẰNG CUNG TÊN
Trên các vùng cao nguyên, có nơi người ta còn khai lửa bằng cách tẩm dầu vào đầu mũi tên có quấn vải, sau đó đốt lửa lên và bắn vào đống củi, lửa bừng cháy.Ngoài ra, có những chương trình lửa trại, đặc biệt là lửa trại truyền thống chúng ta có thể không cần khai mạc lửa ngay mà bắt đầu bằng phút sinh hoạt truyền thống.
- Sau phút sinh hoạt truyền thống tắt đèn, bóng đen trùm xuống, trống múa sư tử, lân... nổi lên. Đội múa lân, sư tử nhảy quanh đống củi lúc này vẫn chưa đốt lên.
- Điệu múa vừa dứt thì trại trưởng cũng bắt đầu đọc lời khai mạc lửa trại. Bài viết này nên gắn liền với truyền thống, di tích lịch sử nhằm thức dậy trong lòng mọi người niềm tự hào và lòng yêu quê hương đất nước.
Chú ý:
Trong khi chơi lửa trại, nếu không có củi có thể sử dụng các cách sau đây:
- Dùng nến hóa học nối lại đốt cháy tùy thích.
- Dùng lon cát có tẩm dầu lửa đốt cháy lên.
- Dùng ngọn lửa điện hay tạo ngọn lửa bằng vải (hiện nay người ta hay sử dụng để trang trí).

Các Hình Thức Lửa Trại

1. LỬA TRẠI HỌP ĐOÀN

MỤC ĐÍCH - Ý NGHĨA
Sinh hoạt riêng của tiểu trại, chi hội, đội nhóm...
Sinh hoạt trước đêm có lửa trại chính thức hoặc lửa trại tổng kết: quây quần, thân ái, tin tưởng...
NỘI DUNG
Sinh hoạt nhẹ nhàng: trò chơi, ca hát cộng đồng, rút kinh nghiệm những việc làm, hoạt động trong ngày, thống nhất những dự tính công việc và hoạt động cho những ngày tiếp theo. Nếu chuẩn bị cho trại tổng kết thì nêu những ưu khuyết điểm để rút kinh nghiệm, trao đổi...
THỜI GIAN TỔ CHỨC
Sau mỗi ngày hoạt động, kéo dài khoảng từ 30 phút đến 45 phút.

2. LỬA TRẠI KẾT THÂN
(lửa trại tiếp xúc, giao lưu)
MỤC ĐÍCH - Ý NGHĨA
Tổ chức giữa các đơn vị còn xa lạ để biết hơn về nhau.
Tổ chức giữa các đơn vị kết nghĩa.
Sinh hoạt giữa các trại sinh trong cùng đơn vị trại.
NỘI DUNG
Sinh hoạt làm quen.
Giới thiệu nét đặc trưng của các đơn vị với nhau.
Hoạt động giao lưu chung - liên kết hoạt động.
Trao quà lưu niệm tập thể, cá nhân.
THỜI GIAN TỔ CHỨC
Ngay đêm đầu tiên gặp gỡ, kéo dài khoảng từ 45 phút đến 60 phút.

3. LỬA KHAI MẠC
MỤC ĐÍCH - Ý NGHĨA
Khai mạc một đợt trại dài ngày như trại huấn luyện, trại sinh hoạt, trại hè...
Ra mắt Ban chỉ huy trại, trại sinh của các đơn vị.
Chính thức nhập trại hoạt động.
Hình thức: Trại huấn luyện, trại dài ngày.
NỘI DUNG:
Gọi lửa, nhảy lửa, sinh hoạt truyền thống.
Châm đuốc khai mạc.
Nghi lễ chào cờ.
Nghi thức khai mạc.
Trại trưởng nói chuyện (ngắn gọn, súc tích, đúng chủ đề)
Để đơn giản bớt phần tổ chức, trong một hội trại dài ngày có thể kết hợp lửa trại giao lưu (đã nói ở phần trên) và lửa trại khai mạc vào một đêm, phần giao lưu, tiếp xúc, làm quen... được tiến hành trước và sau là phần khai mạc ngắn gọn nhưng cũng mang tính chất trang trọng, thân ái, đoàn kết, vui vẻ...
THỜI GIAN TỔ CHỨC
Từ 1 giờ 30 phút trở lên.

4.LỬA TRẠI TRUYỀN THỐNG
MỤC ĐÍCH - Ý NGHĨA
Giáo dục truyền thống nhân các ngày kỷ niệm, ngày truyền thống.
NỘI DUNG
Lời dẫn chuyện, sinh hoạt truyền thống, gọi lửa châm đuốc truyền thống, nhảy lửa.
Tái hiện lịch sử, truyền thống qua các hoạt cảnh lửa trại.
Giao mỗi tiểu trại chuẩn bị các đề tài nhỏ trong kịch bản tổng thể nhằm tạo hiệu ứng giáo dục trong mỗi trại sinh.
THỜI GIAN TỔ CHỨC
Từ 1 giờ 30 phút trở lên.

5. LỬA TRẠI CHỦ ĐỀ (lửa trại tuyên truyền)
MỤC ĐÍCH - Ý NGHĨA
Tạo không khí chủ động, hấp dẫn hơn trong sinh hoạt, bằng các nội dung tọa đàm, thảo luận, hoạt động xoay quanh một hay nhiều chủ đề.
NỘI DUNG:
Gọi lửa, nhảy lửa, châm lửa trại.
Gợi ý chủ đề để mọi trại sinh tham gia.
Phổ biến chủ đề để các trại sinh chuẩn bị: Lịch sử - công tác xã hội - Phòng chống tệ nạn xã hội...
Tổ chức kết nạp Đoàn viên, Hội viên, ra mắt các Đội Thanh niên tình nguyện, Đội công tác xã hội, các CLB Đội, nhóm...
Lời căn dặn của trại trưởng trước khi kết nạp.
THỜI GIAN TỔ CHỨC
Từ 1 giờ 30 phút trở lên.

6. LỬA DẶM ĐƯỜNG
MỤC ĐÍCH - Ý NGHĨA
Bồi dưỡng tinh thần, nâng cao khí thế sau một ngày hành quân mệt nhọc, gặp gỡ sau một ngày hành quân cắm trại.
NỘI DUNG
Sinh hoạt thư giãn, ca hát, chuyện trò trao đổi câu chuyện trên đường hành quân.
Mỗi thành viên góp chương trình một cách tự nhiên.
Trao đổi rút tỉa kinh nghiệm cho ngày mai, cho tương lai.
Người phụ trách nói lời tàn lửa, chúc mọi người ngủ ngon.
THỜI GIAN TỔ CHỨC
Thông thường từ 45 phút đến 1 giờ.

7. LỬA TRẠI NGHỆ THUẬT
NỘI DUNG:
Lửa trại thông tin cổ động
Liên hoan hát dân ca
Liên hoan ca kịch, tiểu phẩm
Sáng tác văn thơ, hội họa
Âm nhạc, hợp xướng
Liên hoan các nhóm, ban nhạc, ca khúc chính trị...
Lửa trại loại này khó thành công vì phải kết hợp được nhiều yếu tố tiến sang lãnh vực nghệ thuật sân khấu. Đơn giản và dễ thành công nhất là những tuồng điệu bộ, những bản dân ca, những điệu vũ dân tộc, kể cả đọc sách ngâm thơ... đã được các tiểu trại tập dợt thành thạo từ lâu và để dành riêng cho loại lửa trại đặc biệt này.
THỜI GIAN TỔ CHỨC
Khoảng 1 giờ 30 trở lên.

8. LỬA HOA (dành cho thiếu nhi)
NỘI DUNG
Phụ trách hát, kể chuyện.
Các em hóa trang thành những con thú dễ thương, bông hoa đẹp diễn cảnh theo nội dung từng bài hát, câu chuyện...
THỜI GIAN TỔ CHỨC
Khoảng 45 phút đến 1 giờ.

9. LỬA TĨNH TÂM
MỤC ĐÍCH - Ý NGHĨA
Làm cho tinh thần của đoàn thể thêm gắn bó, sắt son.
Suy ngẫm những điều hay dở trong cuộc sống mà mình đã trải qua để rút ra những điều tốt đẹp cho cuộc sống và cho mọi người.
NỘI DUNG
Trại trưởng có lời dẫn cho đêm lửa trại tĩnh tâm.
Chuẩn bị 1 ngọn nến cho mỗi người, 1 nhóm từ 3 đến 5 người.
Một nhóm lửa nhỏ cho nhóm người, phân đội, tiểu trại.
Một đống lửa trại cho 1 chi hội, tiểu trại...
Tất cả im lặng mặc tưởng bên đống lửa trại, ngọn lửa như ánh sáng chân lý soi rọi những điều hay dở trong lòng mỗi người, tất cả mọi trại sinh cùng suy ngẫm, mặc tưởng trong im lặng (tĩnh tâm khoảng 10 phút).
Sau đó các trại sinh sẽ nói lên những cảm nghĩ từ đáy lòng mình, những suy gẫm rút ra từ cuộc sống, từ những điều hay và chưa hay để hướng đến cái tốt đẹp chân, thiện, mĩ.
Suy ngẫm nhắc nhở lại tôn chỉ mục đích của đoàn thể.
Trại trưởng giải thích những băn khoăn, làm thông suốt tư tưởng trước khi kết nạp Đoàn - Hội.
ĐỐI TƯỢNG
Dành cho những người hoạt động nhiều năm trong phong trào thanh thiếu niên và các đối tượng chuẩn bị kết nạp Đoàn, Hội.
THỜI GIAN TỔ CHỨC
Lửa được tổ chức vào đêm khuya, không gian tĩnh lặng (khoảng 30 phút đến 45 phút), khi tàn lửa trại chính thức.
Chú ý: Lửa tĩnh tâm chỉ có lời dẫn chuyện, phút mở đầu và tâm sự, nhắc nhở định hướng khi phút kết thúc của trại trưởng, không có nghi thức khai mạc, bế mạc, không có những sinh hoạt sôi nổi.
Lửa tĩnh tâm là phương pháp giáo dục Tâm, Đức, Trí, xuất phát từ tâm niệm của mỗi người, là hình thức giáo dục và tự giáo dục cao trong các loại hình lửa trại.

10. LỬA TRẠI TỔNG KẾT(dùng cho kết thúc một ngày trại)
MỤC ĐÍCH - Ý NGHĨA
Tái hiện lại các hoạt động lửa trại, tạo ấn tượng mạnh về các kỷ niệm tại đất trại để tạo mối dây liên kết mọi trại sinh, mọi đơn vị trước khi kết thúc cuộc trại.
Phát huy nét riêng, sở trường, khả năng tháo vát sáng tạo của trại sinh, của mỗi đơn vị từ các chủ đề tại đất trại.
NỘI DUNG:
Gọi lửa, nhảy lửa.
Từng đơn vị tự thiết kế và tự giới thiệu về nét đặc trưng của đơn vị mình (chương trình tự giới thiệu có hóa trang).
Mỗi đơn vị có một chương trình tham gia, tùy yêu cầu từ 10 đến 15 phút (hợp ca, đồng ca, múa, kịch, tấu hài, hóa trang văn, thơ, nhạc, kịch...).
Sinh hoạt chung toàn trại.
Lời tổng kết của trại trưởng về những ấn tượng khó quên nơi đất trại như nhật ký trại...
Các đơn vị chia tay về trại nghỉ, có thể sinh hoạt nhẹ, tâm sự, nói chuyện nhưng không tổ chức sinh hoạt ồn ào, náo động...
THỜI GIAN TỔ CHỨC
Từ 1 giờ 30 trở lên.

KINH NGHIỆM TỔ CHỨC
Tùy từng lứa tuổi, các đêm lửa trại nên được tổ chức với nhiều hình thức khác nhau, đáp ứng nhu cầu tinh thần và thích hợp với điều kiện tâm sinh lý của từng đối tượng.
- Lứa tuổi thiếu nhi: Hình thức Hoa Lửa, chỉ nên kéo dài 45 phút đến 1 giờ; gồm nhiều tiết mục múa hát có xen kẽ trò chơi nhỏ, có bánh kẹo cho thêm phần vui nhộn, kết thúc tối đa vào lúc 22 giờ để đảm bảo sức khỏe.
- Lứa tuổi thanh niên: Lửa trại kéo dài từ 1 giờ trở lên (tùy theo nội dung và hình thức lửa trại mà chọn thời gian cho phù hợp). Có gọi lửa và nhảy lửa; phần văn nghệ có ca, múa, kịch, hoạt cảnh... xen kẽ các trò chơi. Kết thúc tối đa lúc 23 giờ.
Riêng lửa tĩnh tâm nên bắt đầu sau 23 giờ.
- Hình thức Lửa dặm đường: thường dành cho các đội nhóm, các đối tượng tham quan, du lịch, dã ngoại... nếu thích có thể kéo dài qua đêm không ngủ; không cần gọi lửa và nhảy lửa; có thể tổ chức trong nhà, trên sân thượng, ngoài vườn trên bãi biển... phần văn nghệ hoàn toàn tự phát, chính yếu là trò chuyện chia sẻ theo từng chủ đề; có thể có làm bánh, nướng thịt, lùi khoai và bắp ngô... ăn uống vui vẻ với nhau.
Trong 3 hình thức nêu trên, dạng Lửa trại là thông dụng nhất vì nó có thể bao gồm các loại lửa khác tùy theo chương trình nội dung và mục đích ý nghĩa của từng cuộc trại. Hơn nữa, kỹ thuật tổ chức một đêm lửa trại đòi hỏi nhiều chi tiết phức tạp, nên chúng ta cần đi sâu tìm hiểu dạng này. Một khi đã từng trải qua một đôi lần tổ chức lửa trại, các bạn sẽ có kinh nghiệm hơn để thực hiện dạng Hoa lửa và Lửa dặm đường.
Tóm lại tuy có những hình thức lửa trại khác nhau nhưng tất cả đều có một yêu cầu duy nhất, đó là nội dung và đề tài trong đêm lửa trại. Khi tổ chức cần chú trọng đến mục đích yêu cầu của chương trình lửa trại mà có sự chuẩn bị cho phù hợp cả về nội dung và hình thức. Đặc biệt nên chú trọng đến đối tượng sinh hoạt của đêm lửa trại.

Nguồn: xin bấm vào đây để xem

Tổ Chức Một Buổi Lửa Trại

Tổ chức một buổi lửa trạiĐể tổ chức một buổi lửa trại cho có kết quả, chúng ta phải biết chuẩn bị những công đoạn sau:Chuẩn bị khung:Thông báo cho các Tiểu trại hay các Đội trưởng trước về chủ đề của buổi lửa trại và số lượng tiết mục mà họ có thể tham gia. Trại sinh nếu chưa rành các nghi thức thì phải tập luyện hay ôn lại cho thống nhất và đồng bộ. Ôn lại những băng reo, bài hát, luân xướng, ca múa cộng đồng...Các dụng cụ hóa trang thường được tận dụng những thứ có sẵn như chăn màn, khăn quàng... chứ đừng đặt nặng vấn đề đạo cụ, may sắm như một đoàn hát. Các tiết mục trình diễn, được chuẩn bị trong thời gian ở trại. Nếu lửa trại có đề tài đã được thông báo trước, thì tiết mục nên xoay quanh chủ đề đã chọn.Chuẩn bị địa điểm:Chọn một khu đất khô ráo, rộng rãi, thoáng đãng, không có tàn cây de ra trên đống lửa, không có những hố trũng, gốc cây, rễ cây... Dọn sạch sẽ đất đá và gom sạch lá khô chung quanh. Chuẩn bị chỗ ngồi cho quan khách (nếu có) và các Phụ trách được thoải mái tự do, trên gió, gần nơi trình diễn... Nếu là sân xi măng hay gạch, chúng ta lót thiếc, vỏ cây, lá cây... ở dưới trước, sau đó đổ cát lên, để sân không bị quá nóng dẫn đến nứt nổ.Chọn đề tài:Để cho buổi lửa trại có ý nghĩa, chúng ta nên cô đọng chương trình trong một chủ đề nào đó. Thí dụ: Nếu là buổi lửa trại kỷ niệm ngày thành lập đơn vị, chúng ta nên xoay quanh nguyên lý phong trào, truyền thống đơn vị... Nhưng vẫn không làm mất đi sự vui tươi, trẻ trung, dí dỏm... Hoặc đang cắm trại tại một địa danh lịch sử, một đền thờ anh hùng dân tộc, một di tích tôn giáo... thì chủ đề cũng nên đặt trọng tâm vào đó, tìm hiểu và nêu gương để giáo dục trại sinh.Sắp xếp củi:Có nhiều hình thức sắp xếp củi cho một buổi lửa trại như: hình nón, hình kim tự tháp, hình lục lăng, hình tam giác... Cho dù sắp kiểu nào, thì chúng ta cũng phải cho những vật dễ bắt lửa ở dưới trước, rồi sắp cành cây hay củi nhỏ lên, sau hết mới chất củi lớn (nhớ chừa nơi châm lửa). Sắp xếp đội hình:Nếu là lửa trại nguyên thủy thì quá dễ dàng, vì trại sinh tự động đến ngồi xuống xung quanh đống lửa là đủ. Nhưng nếu lửa trại tăng cường, nhất là những buổi lửa trại có quan khách và khán giả tham dự, thì chúng ta phải biết cách sắp xếp đội hình. Trại sinh ngồi hai ba vòng, không nên ngồi quá rộng, vì sẽ không nghe được tiếng nói của diễn viên (nếu không có hệ thống khuếch âm), cũng đừng để khán giả tràn vào nơi trình diễn, gây cảnh lộn xộn.Quan khách được tiếp rước và hướng dẫn đến chỗ ngồi dành sẵn, trên gió, gần nơi trình diễn.Nhưng các bạn hãy cẩn thận. Một buổi lửa trại mà có quan khách và khán giả thì sẽ biến thành buổi biểu diễn văn nghệ, không khí thân mật ấm cúng sẽ không tồn tại. Các trại sinh dễ rụt rè nhút nhát bỏ mất dịp thử nghiệm tài năng. Như thế thì giá trị giáo dục của lửa trại sẽ chẳng còn bao nhiêu.Chương trình lửa trại:Lửa trại là một buổi trình diễn văn nghệ tự nhiên nhưng không vì thế mà chúng ta thiếu cố gắng và dễ dãi với mình để đi đến coi thường tình cảm của khán giả, và tự hạ thấp tính năng giáo dục của nghệ thuật. Hãy suy nghĩ để sáng tạo cái đẹp, cái thiêng liêng của ngọn lửa - đừng để lố bịch, nhàm chán, rẻ tiền vì thiếu chuẩn bị.Chương trình lửa trại được Quản trò sửa soạn ít nhất là một ngày. Nhưng hình thức và nội dung được giữ kín để tạo sự hấp dẫn (ngoại trừ Quản lửa, để kịp phối hợp). Sau khi thu thập các tiết mục của các đơn vị - Quản trò sẽ tùy nghi sắp xếp, nhưng ca hát thường phải chiếm tối đa, nhất là ca múa cộng đồng. Như thế, bầu không khí sẽ sôi động, bớt uể oải, nhàm chán.Nên thu xếp sao cho các anh chị Phụ trách và cả quan khách tham gia một vài tiết mục hay mẩu chuyện (nhưng phải hỏi ý kiến của họ trước). Thường thì chương trình được thiết lập theo khung sau:- Tập hợp (hò lửa).- Đón các anh chị Phụ trách và quan khách.- Gọi lửa, châm lửa, nhảy lửa.- Lời khai mạc (nếu có).- Sinh hoạt cộng đồng, văn nghệ, ca múa...- Giờ tinh thần (câu chuyện tàn lửa).- Giải tán.Quản trò nên sắp xếp làm sao cho đến khi gần kết thúc, thì chương trình trầm lắng dần dần và kết thúc trong im lặng.Thủ tục khai mạc:Quản trò linh động lựa chọn các cách khai mạc lửa trại tùy theo điều kiện và tính chất của buổi lửa trại đó. Những thủ tục dưới đây chỉ là sự gợi ý: Thủ tục 1:- Quản trò và một số người "hò lửa".- Sau mỗi bài hát "Gọi lửa" thì nêu tên từng đơn vị mời ra khu vực lửa trại.- Đơn vị nào nghe gọi tên mình sẽ "A" lên một tiếng thật dài và chạy ra.- Sau khi trại sinh đã ra khu vực lửa trại hết thì mới mời các anh chị Phụ trách và quan khách.- Trại trưởng hay chủ tọa châm lửa.- Hát bài "nhảy lửa" và cùng nhảy chung.- Lời khai mạc (nếu có)- Chương trình sinh hoạt, văn nghệ.Thủ tục 2:- Anh chị phụ trách tiếp tân đón quan khách từ xa và hướng dẫn vào khu vực lửa trại.- Thần Bóng đêm ra chận lại, vừa khoe khoang khoác lác vừa hù dọa.- Thần Ánh sáng (Quản trò) xuất hiện trong tiếng động inh tai (do trại sinh gõ bằng đủ thứ loại dụng cụ) với cây đuốc trong tay, đánh đuổi Thần Bóng đêm và hướng dẫn quan khách an tọa (trại sinh im lặng). Thần Ánh sáng lên tiếng trấn an và ca ngợi ngọn lửa, ca ngợi ánh sáng...- Thần Ánh sáng hát bài “Gọi lửa” lần thứ nhất, tất cả hát lại lần thứ hai.- Quản trò mời anh chị Phụ trách hay chủ tọa châm lửa.- Múa và hát bài "Nhảy lửa".- Chương trình sinh hoạt, văn nghệ....Bế mạc:Hết chương trình, Trại trưởng cám ơn quan khách và khán giả. Anh chị Phụ trách tiễn quan khách trong khi trại sinh ca bài "Tạm biệt". Nếu có tĩnh tâm, tuyên hứa thì giờ này bắt đầu chuẩn bị tiến hành. Câu chuyện tàn lửa:Nếu lửa trại thường, thì trước khi bế mạc, Trại trưởng có "Câu chuyện tàn lửa" với tất cả trại sinh. Đây cũng là giờ tinh thần với những lời tâm tình nhắn nhủ ngắn gọn. Sau đó hát bài "Tàn lửa" rồi từ từ im lặng rút lui về lều của mình, tuyệt đối không vỗ tay, reo hò hay hô giải tán lúc này.Quản trò:Người ta thường hiểu lầm: Quản trò là một anh hề, lên nhảy nhót, uốn éo để chọc cười thiên hạ. Không đơn giản như vậy đâu, người Quản trò là linh hồn của buổi lửa trại, nó quyết định sự thành đạt của buổi lửa trại đó. Người Quản trò ngoài óc khôi hài, dí dỏm, còn phải năng động, phản ứng nhanh, san lấp ngay những lỗ hổng của chương trình. Người Quản trò phải có nhiều vốn liếng sinh hoạt như: trò chơi, băng reo, ca múa cộng đồng... Phải biết lúc nào tạo bầu không khí sôi động, lúc nào phải trầm lắng. Biết cắt ngang một cách khéo léo những tiết mục quá dài hoặc có nội dung nhảm nhí. Biết phối hợp cùng Quản ca và Quản lửa để tạo nên một chương trình sống động.Quản ca:Thường thì nhiệm vụ này Quản trò có thể kiêm nhiệm nhưng nếu trong buổi lửa trại lớn hay Quản trò không có năng khiếu về ca hát, thì phải có Quản ca để chia bớt gánh nặng. Quản ca không cần phải là ca sĩ mà chỉ cần biết hát và thuộc nhiều bài hát sinh hoạt, vui ca... Biết bắt nhịp, chia bè hát đuổi (luân xướng), biết một số bài ca múa cộng đồng, biết chọn bài hát cho đúng với hoàn cảnh, biết trại sinh đã thuộc những bài ca múa nào và cũng phải có óc hài hước, vui tươi, dí dỏm, phối hợp với Quản trò, Quản lửa cho nhịp nhàng. Quản lửa:Là người chịu trách nhiệm về củi đốt và ánh sáng (nếu tổ chức lớn thì nên lập ra một ban ánh sáng) cho nên người Quản lửa phải biết kỹ thuật sắp củi sao cho cháy đều, hiểu rõ tính chất cháy của những loại củi khác nhau. Lo dự trù củi cho đủ dùng, không được thiếu nửa chừng. Là người chọn khu vực để đốt lửa, Quản lửa phải biết phòng hỏa, tránh đốt lửa dưới tàn cây xanh hay gần những cây có dầu.Trong lúc sinh hoạt văn nghệ, phải phối hợp với Quản trò, Quản ca, để biết khi nào cần tăng, khi nào cần giảm ánh sáng. Vì vậy Quản lửa phải biết một số xảo thuật ánh sáng và cách tạo màu cho lửa. Ghi nhớ:- Quản trò, Quản lửa, Quản ca không nên xuất hiện khi trình diễn, trừ trường hợp cần thiết.- Anh chị Phụ trách nào muốn tham gia cũng phải báo cho Quản trò để sắp xếp, không được giẫm chân lên phần việc của họ.Công cụ hỗ trợ cho lửa trại:Chuột lửa:Là một công cụ dùng cho việc châm lửa khai mạc, có nhiều cách để chế tạo chuột lửa, tùy theo sáng kiến của mỗi người. Hoặc từ trên cao chạy xuống đống lửa hoặc từ dưới thấp chạy lên cao rồi mới xuống đống lửa.a. Từ trên cao chạy xuống:- Căng dây kẽm đến thân cây hay một điểm cao và có độ dốc vừa phải, đầu dây kẽm (phía đống lửa) chúng ta nối bằng một đoạn dây nylon ngắn để sau khi cháy thì dây đứt, không gây trở ngại cho việc trình diễn.- Lấy lon sữa bò, lon bia... cho giẻ tẩm dầu vào, lấy dây kẽm làm thành một cái quai. Dùng tim đèn nối dài (hay vải se lại thành sợi) cột vào lon.- Treo lon trên điểm cao nhất của sợi dây kẽm, cố định bằng dây thun, thòng dây tim xuống cho vừa tầm.- Khi đốt, dây thun đứt, lon lửa sẽ trôi theo độ dốc xuống đống lửa.b. Từ dưới chạy lên: Nguyên tắc thì vẫn trượt theo dây kẽm nhưng một bên thì nhờ trọng lượng, một bên thì nhờ dây thun đàn hồi. Loại chuột lửa này chúng ta để cho hộp lon nằm ngang và làm hai khoen bằng dây kẽm để dễ dàng trượt theo dây hướng dẫn. Từ một góc nào đó, dùng dây thun tạo lực đàn hồi để bắn mồi lửa lên cao, có sẵn chuột lửa. Từ đó chuột sẽ chạy xuống đống củi.Làm đuốc:1. Dùng vải quấn quanh một cành cây tươi, lấy dây kẽm buộc lại, nhúng vào dầu. Cách này giản dị nhưng lửa cháy không bền.2. Lấy một lóng tre, trúc, nứa... vừa tay cầm và có mắt (loại còn tươi), đổ dầu vào lóng tre và nhét giẻ lại, ta có một cây đuốc cháy khá lâu.3. Chẻ một lóng tre ra làm 6 hay 8 phần đều nhau, lấy lon bia hay nước giải khát (loại nhỏ) để vào và dùng dây kẽm cố định cho thật chặt, đoạn đổ dầu và nhét giẻ vào.Tạo màu cho lửa: Trong khi trình diễn văn nghệ, nếu Quản lửa biết cách tạo màu cho lửa, thì tiết mục sẽ thêm hấp dẫn và vui mắt. Dưới đây là một số vật liệu mà Quản lửa phải chuẩn bị để tạo màu cho lửa.Lửa bừng sáng: Ném vào lửa những bao nylon nhỏ có chứa dầu lửa hay xăng, rơm khô, giấy cắt vụn, thuốc pháo bông.Tạo khói: Ném vào lửa rơm ướt, lá cây tươi.Lửa màu đỏ: Bột than.Lửa xanh: Bột sulfate đồng, giấy bạc trắng.Lửa vàng: Muối bọt, nhựa thương phẩm.Lửa tóe bông: Muối hột.

Kỹ Năng Sơ Cứu Khi Đi Trại

Hộp Cứu Thương
Hộp thuốc cứu thương là thứ tối cần thiết phải có khi đi trại. Vì thế tôi xin hướng dẫn các bạn lập một hộp thuốc cứu thương như sau.
Các loại bông băng, thuốc cần có ở trại, cách sử dụng:
A) Các loại băng:- Băng cuộn: để băng các chấn thương ở đầu, ở các chi, cầm máu vết thương (phương pháp băng ép)Băng khăn quàng: được dùng để treo tay khi bị chấn thương (gãy xương, …), thực hiện các đường băng cơ bản (băng bàn chân, băng bàn tay, …v.v.)
B) Các loại thuốc:- Thuốc cảm, trị những chịu trứng cảm lạnh, nóng sốt, đau đầu. Thuốc cần có là Aspirin 81mg, Paracetamon 500mg.- Thuốc đau bụng, trị những chịu chứng rối loạn tiêu hoá. Thuốc cần có là Smecta trị tiêu chảy. Phosphalugel trị đau dạ dày, Kremil-S trị các chứng đầy hơi, ợ nóng.- Thuốc chống dị ứng, trị những vết ngứa, sổ mũi do dị ứng. Thuốc cần dùng Clorpheniramin 4mg trị các sổ mũi hắt hơi, Xi rô Phenergan 0,1% trị nổi mề đay.Lưu ý các thuốc chống dị ứng luôn gây buồn ngủ- Thuốc kháng sinh, phòng nhiễm trùng khi bị các vết thương như vết cắt, vết đâm,…v.v. Thuốc cần dùng Amoxilin 500mg. Lưu ý hạn chế dùng kháng sinh nếu thật sự không cần thiết.- Thuốc trị phòng phỏng, sẽ bôi vào các vết thương khi bị phỏng. Thuốc cần dùng Dầu mù u, Vaseline- Thuốc tăng sức đề kháng, sẽ dùng khi cần tăng sức khoẻ những lúc làm việc quá sức. Thuốc cần dùng như Vitamin C 500mg,hoặc kẹo C ngậm- Thuốc ngừa côn trùng đốt. Thuốc cần dùng DEP, soffel,- Thuốc lọt nước, khử trùng. Thuốc tím- Thuốc sát trùng, để dùng sát trùng vết thương. Thuốc cần dùng Oxy già, Alcool 900, Povidine 5%C) Y cụ và các thứ khác.- 1 cây kéo- 1 cái kẹp (nhíp)- Bông gòn- Ống tiêm- Sợi dây 3-5 cm dùng để làm garrot- Vài miếng gạc vô khuẩn- Một cái nhiệt kế- Vài lưỡi dao cạo.
CÁCH SỬ LÝ CÁC TÌNH HUỐNG THÔNG THƯỜNG
Khi đi trại ở nhưng nơi xa thành phố hay nơi ko có điều kiện y tế đầy đủ thì khi có ai đó bị tai nạn do nhiều nguyên nhân như : bị con gì có cắn , ăn phải thức ăn có độc thì ta vẫn có thể giúp người đó khỏi nguy hiểm bằng những biện pháp sơ cấp cứu dơn giản sau trước khi có điều kiện đưa người bị nạn về biện viện điều trị
ĐẦY BỤNG KHÓ TIÊU
Triệu chứng:- Xảy ra sau bữa ăn quá nhiều món, thức ăn bị ôi thiu hoặc thức ăn lạ.- Nôn mửa, đau bụng, ỉa chảy.Xử trí:Uống một cốc nước hòa 1 muỗng canh bicacbonat (thuốc muối) hoặc uống một cốc chè đường. Nhịn ăn một bữa.Tuy nhiên cần cảnh giác, phải đi khám bệnh khi:- Cơn đau kéo dài qúa 2 giờ.- Nôn mửa qúa nửa giờ.- Sốt trên 37,5 độ.
NGỘ ĐỘC THỨC ĂN
Triệu chứng:- Xảy ra khoảng 6 giờ sau khi ăn.- Thức ăn ôi thiu, đồ hộp qúa hạn sử dụng.- Đau bụng dữ dội, nôn mửa nhiều lần.- Hoa mắt, chóng mặt, ngất, vã mồ hôi.Xử trí:- Lấy một lông gà đã rửa sạch, ngoáy họng để gây nôn. Giữ lại chất nôn và nước tiểu.- Sưởi ấm.- Điều tra diễn biến sự việc ở người xung quanh.- Chuyển bệnh viện hoặc mời bác sĩ.
NGỘC ĐỘC NẤM* MỘT SỐ CÁCH PHÂN BIỆT GIỮA NẤM ĐỘC VÀ NẤM ĂN ĐƯỢC.
+ Nấm độc:- Thường có hình thù kỳ dị.- Màu sắc rực rỡ và có ánh lân tinh khi để trong bóng tối.- Ngắt đọt cây thấy có nhựa trắng.- Nhai thử thì thấy có vị đắng, cay hay buồn nôn.- Nếu nấu lên 15 phút, sau đó bỏ vật bằng bạc hay bằng đồng mà bề mặt vật đó bị đen lại.- Hoặc có bọc loe hình chén – còn gọi là yếm chân cứng (xem hình).
+ Nấm ăn được:- Dưới mũ có kẻ khía.- Trên mặt mũ thường trơn láng một màu.- Có thể có bọc loe (yếm) mềm hình chén ở chân.Triệu chứng và xử trí:Tùy thuộc loại.- Loại nấm gây nôn mửa, ỉa chảy 1 – 4 giờ sau khi ăn. Chỉ cần gây nôn (nếu đến sớm) cho uống nước đường, nước mía. Hoặc nếu có thể uống than hoạt tính tán nhỏ thì rất tốt.- Loại nấm (rất ngọt) gây viêm gan nhiễm độc sau 12 giờ, dễ gây tử vong (vàng da, hôn mê). Cho bệnh nhân uống nước đường rồi chuyển đến bệnh viện ngay.* Tóm lại nếu không biết chắc thì tốt nhất là đừng ăn kẻo ngộ độc rất nguy hiểm.
NGỘ ĐỘC THUỐC
- Hay gặp ở trẻ em: cha mẹ cho uống qúa liều hoặc tưởng lầm thuốc là kẹo.
- Thường gặp ở những người có chủ trương tự tử.
Triệu chứng:- Xanh tím, vã mồ hôi.
- Thở nông hoặc ngưng thở.Xử trí:
- Thổi ngạt.- Chuyển ngay đến bệnh viện.
SAY NẮNG
Là tác dụng trực tiếp của ánh nắng lên đầu, gáy nạn nhân trong một thời gian dài.Triệu chứng:- Da đỏ, rất nóng và khô.- Nhức đầu, khó chịu, chóng mặt, mệt, đau lưng.- Nôn mửa, xây xẩm mặt mày, khó thở.- Cuối cùng là hôn mê, trụy mạch nếu không được cứu chữa.- Thân nhiệt cao: 40 – 41 độ C. Đôi khi trên 42 độ C, lúc này người bị nạn có thể bất tỉnh.Xử trí:- Đưa nạn nhân đến chỗ râm mát.- Đặt nằm, đầu hơi cao, cởi quần áo. Quạt cho nạn nhân.- Chườm lạnh bằng khăn ở đầu (trán, gáy), ở ngực, bụng và hai đùi.- Cho uống nhiều nước lạnh có pha nước muối (nửa thìa cà phê cho 1 lít nước).- Chuyển nạnn nhân đến bệnh viện, không đắp chăn. Tiếp tục chườm lạnh.
SAY NÓNG
Là tình trạng cơ thể ở trong một môi trường qúa nóng nhưng ẩm ướt và không có gío, lao động chân tay nặng nhọc.Có thể xảy ra ở trẻ sơ sinh sốt cao lại được bọc trong chăn (mền).Triệu chứng:- Mệt rã rời, chuột rút. Có thể không sốt.- Da lạnh, mặt tái nhợt, vã mồ hôi, lạnh, đồng tử giãn.- Mạch nhanh, nhịp thở nhanh.- Nhức đầu, chóng mặt, buồn nôn.- Có thể trụy mạch, ngất xỉu.- Đối với trẻ nhỏ: sốt cao, lên cơn giật.Xử trí:- Đặt nạn nhân ở nơi mát.- Cho uống nước lạnh hoặc nước có pha 1 thìa (muỗng) cà phê muối cho 1 lít nước.- Mời bác sĩ.
CHÓ DẠI CẮN
Xử lý:- Tìm cách điều tra con chó vừa mới cắn mình xong. Nếu là chó dại thì phải nhờ người cố bắt được, không được đánh chết nó.- Để cho vết thương chảy máu cho nước dãi chó ra bớt.- Khử khuẩn da xung quanh nhiều lần bằng thuốc tím, cồn íôt hoặc cồn 70 độ, băng lại.- Đưa đến trạm vệ sinh phòng dịch hoặc viện Pasteur (nếu ở thành phố) để tiêm phòng dại và phòng uốn ván. Nếu giữ con chó đó trong 10 ngày mà không có chuyện gì xảy ra thì có thể ngưng chích.RẾT CẮNRết là một loài bò sát có rất nhiều chân (cả trăm chân), có một đôi răng nhọn hoắt. Sau khi cắn người thì chất độc từ lỗ chân răng phóng thẳng vào vết thương.Triệu chứng:- Nếu nhẹ: Sưng nhức, khó chịu.- Nếu nặng: tổ chức cục bộ bị hoại tử làm viêm tuyến bạch huyết, nóng sốt cao độ, đau nhức đầu, lợm giọng, buồn nôn mửa.Xử lý:- Rửa bằng xà bông nước hoặc dung dịch Amoniac.- Chườm lạnh nhằm làm giảm đau nhức.- Nếu không thuyên giảm thì chuyển vào bệnh viện.Theo dân gian:- Hạt tắc (quất) giã nhỏ, đắp vào vết cắn.- Giã bạc hà hay lấy rau sam đắp vào vết cắn.- Hơ chỗ bị cắn vào ngọn đèn hay lửa cho bị nóng lên.- Thọc tay vào cổ gà lấy chất nhờn bôi vào vết cắn.- Lấy gòn thấm dầu hôi bóp mạnh vào vết thương.
BÒ CẠP CHÍCH
Mũi kim ở cuối phần đuôi Bò cạp có chứa nọc độc cực kỳ lợi hại và có một số trường hợp có thể đưa đến tử vong, ta không nên xem thường.Triệu chứng:Người bị Bò cạp chích cảm thấy đau nhức và sưng tấy lên, chảy cả nước mắt nước mũi, lợm giọng, nôn mửa, tê lưỡi, nhức đầu, buồn ngủ, thở hổn hển, thậm chí có thể hôn mê, nóng sốt cao độ, viêm tụy.Xử lý:- Tìm cách lấy ngòi châm độc ra.- Rửa nước sạch chỗ bị chích, lấy vải lạnh băng lại.- Chữa bằng cách giác hơi giống như bị rắn cắn.- Có thể chữa theo dân gian bằng cách rửa sạch và giã nát Bồ công anh và Đại thanh diệp để đắp lên vết thương.- Nếu thấy chưa thuyên giảm thì phải chuyển gấp vào bệnh viện.
ONG ĐỐT
Triệu chứng:Đau nhức kịch liệt, sưng tấy đỏ, nóng sốt cao độ, lợm giọng, nôn mửa, lòng bồn chồn hay kích động; nặng hơn có thể bị hôn mê hoặc tử vong.Xử lý:- Tìm cách gắp ngòi và túi độc của ong.- Có thể rửa bằng một trong những loại nước sau: Nước xà phòng, dung dịch Amoniac, nước vôi hoặc không có thì nước sạch cũng được.- Tán nhỏ Aspirin và rắc lên nơi bị chích để giảm đau.- Nếu là ong vàng thì rửa bằng giấm hoặc hành tươi.- Có thể chữa theo dân gian bằng cách rửa sạch và giã nát Thất diệp nhất chi hoa, Tử hoa địa đinh, bồ công anh và Bán biên liên để đắp lên vết thương.- Người dân tộc thường cố đập chết con ong lấy xác xé làm đôi và đắp lên vết cắn.- Dùng gạc tiệt trùng để băng bó vết thương.- Nếu có nhiều vết đốt thì chuyển viện gấp.
ĐỈA HOẶC VẮT CẮN
Hãy yên tâm, hai con này cắn thì không thấy đau, nhưng sẽ bị mất máu.Đỉa thì ở dưới nước: ao, hồ… to bằng khoảng ngón tay út. Người ta có câu “Dai như đỉa” có nghĩa là khi nó đã bám vào người nào để hút máu thì rất khó dứt ra. Vết cắn của nó hơi ngứa ngứa chút đỉnh.Vắt thì ở trên cạn, chỉ nhỏ bằng que tăm, thường nằm dưới lá ẩm mục. Nó có vẻ “khôn” hơn con đỉa ở chỗ: Không bao giờ hút máu liền ngay sau khi bám vào người chúng ta. Nó thường cẩn thận bò len lỏi vào những chỗ kín nhất trong cơ thể chúng ta, lúc ấy mới tiến hành hút máu. Đến khi ta phát hiện thì hỡi ôi! Con vắt ban đầu chỉ bằng que tăm, giờ đây nó đã lớn bằng ngón tay cái. Điều đ1o có thể hiểu rằng số lượng máu của ta mất đi ngang bằng với kích thước thực tại của nó.Triệu chứng:Sau khi cắn, những con vật này thường tiết ra chất Hirudin nên máu cứ chảy không ngừng vì chất này có khả năng chống đông máu.Xử lý:- Con đỉa kỵ vôi hoặc xà phòng. Do đó, khi đi tắm chỗ nào nghi có đỉa thì nên mang theo 2 thứ đó. Nên khi nếu lỡ ta bị đỉa hút máu, thì hãy bôi một trong 2 thứ này vào: Nó sẽ nhả ra ngay.- Nếu chúng chui vào mũi hoặc tai (hoặc bất kỳ ngóc ngách nào trên co thể): lấy nước vôi trong bơm vào cho nó nhả ra. Sau đó dùng kẹp gắp.- Dùng mật ong nguyên chất nhỏ vào, nó cũng nhả ra.- Bôi dung dịch Perchlorure mà đem cầm máu là hiệu qủa nhất.
VE CẮN
Có 2 loại ve: Ve cắn (mà người ta hay gọi là ve chó) và ve không cắn (ve sầu kêu rả rích vào mùa hè).Triệu chứng:- Khi cắn vào ai, ve sẽ bám vào và hút máu.- Khi có động, ve sẽ tự động làm đứt phần đầu giả (nhỏ xíu nhưng đầy gai) dính lại vào vết cắn làm cho nạn nhân đau đớn, có khi cả năm sau mới hết khó chịu.Xử lý:- Nếu ve còn bám vào da, không nên động vào nó mà nên dùng nước điếu nhỏ vào, hoặc có thể lấy lửa diêm hay than đỏ dí từ từ vào, nó sẽ tự rơi ra.- Sau đó dùng vôi ăn trầu bôi vào vết cắn.- Nếu có thuốc mỡ DEP để bôi vào là tốt nhất.
NGỨA DO TRÚNG MẮT MÈO
Triệu chứng:Khi bị trúng mắt mèo, ta thấy rất ngứa. Nếu gãi lãi càng thấy ngứa thêm, vết gãi sẽ càng tấy đỏ. Trái mắt mèo giống trái me nhưng đầy lông gây ngứa, nếu trúng mắt có thể gây mù mắt.Xử lý:- Đốt giấy hơ lên chỗ ngứa.- Nắm cơm nếp (hoặc cơm tẻ cũng được) lăn trên da mặt.- Hoặc dùng băng keo dán vào những nơi da bị ngứa rồi lột ra để loại bỏ các lông.
RẮN CẮNXÁC ĐỊNH LÀ RẮN ĐỘC CẮN
Khi bị rắn cắn, bất kể là loại rắn nào, ta cũng phải hết sức cẩn thận. Nếu chu vi vết cắn gây đau nhức kịch liệt, sưng phù, nạn nhân nhức đầu, hoa mắt, buồn nôn… thì có thể là đã bị rắn độc cắn. Dựa vào con rắn đã đánh, bắt được: rắn lục, hổ mang, cạp nong, cạp nia...Triệu chứng:- Nếu là rắn lục hay chàm quạp thì vết thương xưng tấy đau nhức rất nhanh.- Nếu là rắn hổ, vết thương ít sưng đau nhưng vài giờ sau nạn nhân có thể chết vì ngạt thở do chất độc làm liệt hô hấp.Xử lý:- Thật bình tĩnh, không được cử động mạnh. Nếu không nọc độc sẽ càng lan nhanh trong cơ thể.- Dùng băng cuộn hay nẹp vải băng chặt phía trên vết rắn cắn khoảng 5cm. Nếu làm garô thì phải cẩn thận: cứ sau 1 giờ thì nới garô 1 lần, ghi chép nhật ký garô.- Khử khuẩn vết cắn bằng thuốc tím hoặc cồn íôt. Có thể tẩy nọc tại chỗ bằng nước xà phòng hoặc các loại nước có chất chua hay chát.- Lấy một con dao thật bén đã khử trùng sạch sẽ (bằng lửa là tốt nhất) rạch vào mổi vết răng nanh một hình chữ thập (+) dài khoảng 1cm và sâu 1,2cm.- Dùng miệng (không sâu răng hoặc có vết thương bên trong) hút nọc độc và nhổ đi trong khoảng 15 phút. Nếu có ống giác hơi thì càng tốt. Lưu ý: Phương pháp này phải làm ngay sau khi bị cắn, chứ nếu đã bị cắn sau 30 phút rồi thì xem như vô ích.- Cho nạn nhân uống cà phê hoặc chè đặc.- Quấn nước đá vào một khăn vải và đắp chườm xung quanh vết rắn cắn. CHỮA DÂN GIAN:-Hòa chung 20g bù ngót (hoặc rau răm hay cây kim vàng) với 5g phèn chua: giã nhuyễn, nước để uống, xác đắp lên vết cắn.- Nhai cùng một lúc 6-7 lá trầu, 1 qủa cau, một chút vôi trầu, một miếng quế bằng ½ ngón tay út giã nhuyễn. Nuốt hết nước cốt vào miệng.- Chuyển nạnnhân đến bệnh viện (tránh bị dằn xóc-càng êm càng tốt).
SỐT CAO
Triệu chứng:Sốt cao có nhiều nguyên nhân, nhưng bản thân sốt coa trên 39 độ C có thễ nguy hiểm, đặc biệt đối với trẻ nhỏ.Xử trí:- Đối với trẻ nhỏ, cởi hết quần áo, mũ trên người đứa trẻ.- Ở người lớn chỉ cho mặc quần lót.- Chườm khăn, nước lạnh hoặc nước mát lên đầu, ngực, bụng, đùi, háng và sau gáy – khi hết lạnh, thay khăn khác.- Quạt cho người bệnh.- Chỉ ngừng khi nhiệt độ hạ xuống dưới 38 độ C.- Cho uống nhiều nước lạnh, nước trái cây.- Nếu sốt cao qúa 40 độ C có thể xuất hiện co giật.- Phải chườm lạnh tích cực hơn.- Khi đỡ sốt, mời bác sĩ khám để tìm nguyên nhân.- Không được cho uống Aspirin nếu bệnh nhân hay đau vùng dạ dày (bụng trên).
CHẢY MÁU CAM
Xử trí:- Ngồi yên, không khịt mũi, khạc nhổ, không nuốt máu.- Bóp chặt hai cánh mũi bằng hai ngón tay trong 10 phút cho đến khi máu ngừng chảy.- Nếu máu vẫn chảy, làm một nút bông gòn dài thấm bông vào một nửa ống Adrenalin rồi nút vào lỗ mũi, để thò đầu bông ra ngoài.- Tiếp tục bóp chặt mũi.- Vài giờ sau, bỏ tay ra kiểm tra xem máu còn chảy không?- Ở người nhiều tuổi, máu thường chảy ở lỗ mũi sau, khó cầm, cho nạn nhân cúi đầu về phía trước, ngậm một hăn tay mùi xoa đã gấp nhỏ, không được nuốt.- Sau đó đưa ngay bệnh nhân đến bệnh viện.